Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08/02/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 541/2021/TLST- HNGĐ, ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 01/01/2022; quyết định hoãn phiên tòa số 05a/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18/01/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Dương Thị T, sinh năm 1987.

- Bị đơn: Anh Ma Văn N, sinh năm 1986.

Cùng địa chỉ: Thôn T, xã Th, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

(Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh N vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Dương Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị T và anh Ma Văn N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 12/10/2007 tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Th, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn hai vợ chồng cùng làm ăn sinh sống tại thôn T, xã Th, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2018 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã khiến cho cuộc sống chung luôn trong tình trạng căng thẳng. Bản thân anh N thường xuyên có hành động vũ phu đánh chị. Do không chịu đựng được nên chị và anh N đã sống ly thân từ năm 2020 đến nay không còn đi lại, quan tâm gì đến nhau. Nay chị xác định tình cảm không còn, không thể đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ma Văn N.

Về con chung: Chị và anh N có 02 con chung là cháu Ma Văn T, sinh ngày 30/8/2005 và cháu Ma Thị Ngọc Á, sinh ngày 20/02/2011. Hiện nay cháu T đã bỏ học và đang đi làm công việc tự do, còn cháu Á đang ở cùng anh N. Khi ly hôn chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu Á, còn cháu T chị nhất trí giao cháu cho anh N nuôi dưỡng, giáo dục. Chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Ma Văn N trốn tránh, không hợp tác làm việc, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không hòa giải được.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/12/2021, ông Ma Thành L (Ông L là bố ruột của anh N) là người làm chứng trình bày:

Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống của chị T và anh N như chị T trình bày là đúng. Khoảng đầu năm 2020 giữa vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn là do chị T thời điểm đó đi làm công ty đã có những hành vi không đúng đắn với người đàn ông khác. Vợ chồng anh chị cũng đã sống ly thân được một thời gian. Hiện nay anh N đang đi làm ăn xa nhà, không có mặt tại địa phương thỉnh thoảng anh N mới về, các văn bản của Tòa án gửi về ông cũng có thông báo cho anh N biết, anh N có thông tin lại đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung vợ chồng anh chị có hai con chung là cháu Ma Văn T, sinh ngày 30/8/2005 và cháu Ma Thị Ngọc Á, sinh ngày 20/02/2011. Hiện nay cháu T đã nghỉ học, còn cháu Á hiện nay đang ở cùng gia đình ông. Việc giao nuôi con chung theo ông nên để cho vợ chồng anh chị tự thỏa thuận ông không có ý kiến gì về việc chia giao con chung khi ly hôn.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị T, xử cho chị Dương Thị T được ly hôn với anh Ma Văn N. Giao cháu Ma Thị Ngọc Á, sinh ngày 20/02/2011 cho chị Dương Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Ma Văn T, sinh ngày 30/8/2005 cho anh Ma Văn N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Dương Thị T tự nguyện chịu toàn bộ phần án phí, anh Dương Văn N không phải chịu án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Dương Thị T và anh Ma Văn N kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chị Dương Thị T và anh Ma Văn N đều đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn T, xã T, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.

[3] Anh Ma Văn N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Dương Thị T, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú của chị T và anh N xác định: Chị T và anh N kết hôn vào năm 2007. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn T, xã Th, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian chung sống vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn dẫn dến đánh chửi nhau. Bản thân chị T xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể quay lại đoàn tụ được. Quá trình giải quyết vụ án, anh N không có ý kiến gì, không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy anh N cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ.

Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh N đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị T là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về việc giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: Qúa trình giải quyết ly hôn chị T đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu Ma Thị Ngọc Á, sinh ngày 20/02/2011, còn cháu Ma Văn T, sinh ngày 30/8/2005 chị muốn giao cho anh Ma Văn N nuôi dưỡng, giáo dục. Bản thân cháu T thể hiện nguyện vọng mong muốn được ở với anh N, còn cháu Á có nguyện vọng muốn được ở với chị T. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 giao cháu Ma Thị Ngọc Á, sinh ngày 20/02/2011 cho chị Dương Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Ma Văn T, sinh ngày 30/8/2005 cho anh Ma Văn N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

[6] Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị T xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Dương Thị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Ma Văn N không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị T về việc Kiện Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với anh Ma Văn N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị T được ly hôn với anh Ma Văn N.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Ma Thị Ngọc Á, sinh ngày 20/02/2011 cho chị Dương Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Ma Văn T, sinh ngày 30/8/2005 cho anh Ma Văn N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Dương Thị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001842 ngày 03 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Anh Ma Văn N không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về