Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 81/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH TIỀN GIANG

BN ÁN 81/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 166/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2022/QĐXX-ST ngày 22/4/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Chị Phạm Thị Ngọc A - sinh năm: 1987;

Địa chỉ: Số 80/2 Nguyễn Huỳnh Đức, Phường M, thành phố Q, Tiền Giang.

* Bị đơn : Anh Nguyễn Thanh B - sinh năm: 1983;

Địa chỉ: Số 22A Trần Thị Thơm, Phường N, thành phố Q, Tiền Giang.

(Chị A có mặt; anh B vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Ngọc A trình bày: Chị và anh Nguyễn Thanh B sống chung vào năm 2006, do hai bên tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang vào năm 2006. Cuộc sống chung của vợ chồng chị rất hạnh phúc nhưng đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh B ăn nhậu về hành hung chị, đập phá đồ đạc trong gia đình nhưng vì các con chị đã cố gắng duy trì cuộc hôn nhân này và nhiều lần khuyên can anh B, tuy nhiên anh B vẫn không thay đổi. Anh chị đã ly thân từ năm 2022 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh B.

Về con chung: Có 03 con chung tên Nguyễn Phạm Minh C, sinh ngày 04/12/2011; Nguyễn Phạm Minh E, sinh ngày 21/7/2019 và Nguyễn Phạm Minh D, sinh ngày 21/7/2019. Khi ly hôn, chị yêu cầu nuôi ba con và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi ba con chung.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại Biên bản hoà giải ngày 18/4/2022, bị đơn anh Nguyễn Thanh B trình bày: Anh thống nhất với nội dung trình bày của chị A về thời gian và điều kiện đăng ký kết. Cuộc sống chung của anh chị không có mâu thuẫn gì lớn. Đầu năm 2022, anh có đập phá đồ đạc trong nhà khi đã có uống rượu nhưng không có đánh đập hay hành hung chị A. Từ đó chị A và ba con chung về nhà cha mẹ chị A ở đến nay. Nay chị A xin ly hôn, anh không đồng ý vì con anh còn nhỏ, anh muốn con có đủ cả cha lẫn mẹ và ông bà hai bên.

Về con chung: Anh thống nhất với lời trình bày của chị A về con chung. Trong trường hợp Toà án chấp nhận theo yêu cầu ly hôn của chị A, anh yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Minh E, hai con chung còn lại anh giao cho chị A nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Do anh không đồng ý ly hôn nên anh không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản chung. Trong trường hợp, Toà án chấp nhận theo yêu cầu ly hôn của chị A, về tài sản chung anh không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết trong vụ án này.

Về nợ chung: Không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa. Về nội dung xét thấy mâu thuẫn giữa chị A và anh B là có thật, Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng anh B đều vắng mặt nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A; ba con chung đang sống chung với chị A nên đối với yêu cầu nuôi con chung của chị A là có cơ sở và phù hợp với nguyện vọng của cháu Thông nên đề nghị Hội đồng chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự.

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị A khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh B, giải quyết vấn đề con chung của anh chị. Do đó, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, nuôi con” theo quy định tại Điều 51 và Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về thẩm quyền gải quyết: Bị đơn đang cư trú tại số 22A Trần Thị Thơm, Khu phố 1, Phường N, thành phố Q, tỉnh Tiền Giang nên Tòa án nhân dân thành phố Q có thẩm quyền giải quyết vụ án là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về thủ tục tố tụng: Anh B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh B.

[4] Đối với yêu cầu xin ly hôn của chị A, Tòa xét thấy: Chị A trình bày nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm về cách sống, cách nghĩ và thường xuyên cự cãi nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, anh chị đã ly thân từ đầu năm 2022 cho đến nay. Tại lần hoà giải ngày 18/4/2022, anh B không đồng ý ly hôn và yêu cầu được đoàn tụ để hàn gắn tình cảm nhưng Tòa án tiếp tục triệu tập anh B nhằm tạo điều kiện cho anh chị hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng anh B vẫn vắng mặt, qua đó cho thấy anh B không có thành ý cứu vãn mối quan hệ hôn nhân với chị A. Do đó, Tòa án xét thấy mâu thuẫn giữa anh chị là trầm trọng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu của chị A, cho chị A được ly hôn với anh B.

[5] Về con chung: Chị A yêu cầu nuôi ba con chung, anh B yêu cầu được nuôi cháu Minh D. Xét thấy, cháu Minh D và Minh E cùng sinh ngày 21/7/2019 là anh em sinh đôi, cả hai cháu đang sống ổn định với chị A cho nên việc tách hai cháu ra riêng để nuôi dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý của hai cháu; đồng thời tại thời điểm xét xử cả hai cháu đều dưới 36 tháng tuổi nên yêu cầu nuôi cháu Minh D của anh B là không có cơ sở nên Toà không chấp nhận. Đối với yêu cầu nuôi ba con chung của chị A là có cơ sở và phù hợp với nguyện vọng của cháu Minh C nên Toà án chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Anh chị không yêu cầu nên Toà án không xem xét.

[7] Về án phí: Chị A phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

[8] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm xét thấy phù hợp với những nhận định trên nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Điều 147 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Ngọc A.

- Về tình cảm: Chị Phạm Thị Ngọc A được ly hôn với anh Nguyễn Thanh B.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Phạm Minh C, sinh ngày 04/12/2011 ;

Nguyễn Phạm Minh E, sinh ngày 21/7/2019 và Nguyễn Phạm Minh D, sinh ngày 21/7/2019 cho chị Phạm Thị Ngọc A được tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thanh B được quyền thăm nom ba con chung sau khi ly hôn, không ai được quyền cản trở.

2. Án phí: Chị Phạm Thị Ngọc A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004879 ngày 04/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Q.

3. Chị Phạm Thị Ngọc A có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với anh Nguyễn Thanh B thời hạn trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 81/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:81/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về