Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 55/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 55/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 170/2021/TLST-HNGĐ ngày 29/4/2021, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31/5/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim P, sinh năm 1994, vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã B, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Bị đơn: Ông Trần Thái T, sinh năm 1989, vắng mặt.

Địa chỉ: ấp X, xã Y, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản không hòa giải được tại tòa, nguyên đơn bà Trần Thị Kim P trình bày:

Bà Trần Thị Kim P và ông Trần Thái T tự nguyện chung sống vợ chồng với nhau từ năm 2016, có đăng ký kết hôn, tổ chức đám cưới. Đến năm 2020 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm nên vợ chồng hay cãi nhau. Hiện nay, vợ chồng đã sống ly thân, mặc ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai. Vợ chồng có nói chuyện hàn gắn tình cảm nhưng không được. Nay bà P nhận thấy không còn tình cảm, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và không thể chung sống với ông T được nữa. Vì vậy bà P yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà P và ông T có 1 con chung là Trần Thái Bảo, sinh ngày 05/4/2017. Bà P yêu cầu giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và bà P cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về ý kiến của bị đơn ông Trần Thái T: Trong quá trình tố tụng ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì.

- Theo Biên bản xác minh ngày 05/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền có nội dung như sau: Ban ấp An Lộc, xã An Ngãi cung cấp thông tin như sau: Bà P và ông T chung sống vợ chồng từ năm 2016 tại địa chỉ: 3/9A tổ 1, ấp An Lộc, xã An Ngãi, huyện Long Điền. Vợ chồng ông T, bà P có mâu thuẫn nhưng ban ấp không rõ là gì. Hiện nay chỉ thấy ông T và con Trai là cháu Trần Thái Bảo, sinh ngày 05/4/2017 sống tại địa chỉ này.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn chưa thực hiện đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà P.

Về con chung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà P, giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và bà P cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà P và ông T không yêu cầu giải quyết nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ tranh chấp: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà P và ông T tự nguyện chung sống, đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là hôn nhân hợp pháp.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: Xét thấy, sự mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa bà P, ông T là có thật, vợ chồng không có sự đồng cảm, quan tâm, chia sẻ buồn vui cùng nhau, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân, mặc ai nấy sống, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Như vậy, quan hệ hôn nhân của bà P, ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà P.

[4] Về con chung: Bà P xác nhận có 1 con chung là Trần Thái Bảo, sinh ngày 05/4/2017. Bà P yêu cầu giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và bà P cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Xét thấy cháu Bảo đang ở với ông T, mặt khác ông T không đến Tòa án giải quyết việc ly hôn với bà P nên không biết nguyện vọng của ông T, nên chấp nhận yêu cầu của bà P, giao cháu Bảo cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông T không yêu cầu nhưng bà P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà P và ông T không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bà P phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51; 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Kim P.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Kim P được ly hôn ông Trần Thái T.

- Về con chung: Bà P, ông T có 1 con chung là Trần Thái Bảo, sinh ngày 05/4/2017. Giao con chung là Trần Thái Bảo cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị Kim P về việc cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Bà Trần Thị Kim P được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà P và ông T không yêu cầu giải quyết nên không xét đến.

2. Án phí: Áp dụng Nghị Quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: Bà Trần Thị Kim P phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 04620 ngày 13/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền. Như vậy, Bà P còn phải nộp 300.000 đồng.

3. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 22/6/2022) đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 55/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về