Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 28 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 311/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp “ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm: 1997; địa chỉ: 154/1 ấp X, xã T, huyện T, tỉnh B (có yêu cầu xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Đoàn Tấn P, sinh năm: 1984; địa chỉ: 154/1 ấp X, xã T, huyện T, tỉnh B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, bản khai, Đơn xin xét xử vắng mặt trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Trần Thị N trình bày:

- Về hôn nhân: vào năm 2012 chị và anh P qua thời gian tìm hiểu rồi tự nguyện tiến đến hôn nhân, tuy nhiên đến năm 2015 mới thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 08/6/2015. Sau khi cưới nhau anh chị sống cùng gia đình cha mẹ ruột của chị N tại ấp X, xã T, huyện T, tỉnh B. Thời gian sống chung chị và anh P có 01 con chung: Đoàn Tấn H, sinh ngày 24/10/2012. Trong khoảng thời gian chung sống anh P không lo làm ăn thường xuyên chơi bời nhậu nhẹt, không chăm lo cho gia đình, anh P có đi làm có thu nhập nhưng chỉ vun vén cho bản thân không phụ giúp lo cho con và kinh tế gia đình. Chị và gia đình nhiều lần khuyên nhủ anh P hứa hẹn sửa chữa lỗi lầm nhưng anh không sửa đổi. Từ đó chị và anh P bất đồng quan điểm và sống ly thân khoảng 1,5 năm nay. Anh P cũng đã biết việc chị gủi đơn ly hôn và tòa thụ lý nhưng không có thiện chí hàn gắn. Khoảng thời gian sống ly thân chị và anh P không gặp gỡ hàn gắn tình cảm. Xét thấy hôn nhân không hạnh phúc và nay cũng không còn tình cảm, không có khả năng hàn gắn tình cảm với anh P nên chị yêu cầu ly hôn với anh P.

Về con chung: chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hoàng và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: không có, chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn anh Đoàn Tấn P đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên không có lời trình bày.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa P biểu quan điểm:

Về trình tự, thủ tục: Thẩm phán và Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử. Do nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng trong vụ án.

Về nội dung: xét lời trình bày của chị N cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Thấy rằng trong thời gian chung sống chị và anh đã P sinh nhiều mâu thuẫn, không hàn gắn đoàn tụ được. Do đó có căn cứ xác định hôn nhân giữa anh, chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị N, chị yêu cầu ly hôn với anh Đoàn Tấn P nên đây là tranh chấp “ly hôn, nuôi con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Đoàn Tấn P cư trú tại xã T, huyện T, tỉnh B, do đó căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú.

[2] Về tố tụng: chị N có yêu cầu xét xử vắng mặt; anh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.Vì vậy căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng trong vụ án.

[3] Về hôn nhân: xét về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn thấy rằng chị N và anh P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 08/6/2015. Do đó hôn nhân của anh, chị đã tuân thủ đầy đủ các quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét lời trình bày của chị N cho rằng mối quan hệ hôn nhân giữa chị và anh P đã trải qua khoảng thời gian dài mất hạnh phúc từ việc anh P không lo làm ăn thường xuyên chơi bời nhậu nhẹt, không chăm lo cho gia đình, anh P có đi làm có thu nhập nhưng chỉ vun vén cho bản thân không phụ giúp lo cho con và kinh tế gia đình. Chị N và gia đình nhiều lần khuyên nhủ anh P hứa hẹn sửa chữa lỗi lầm nhưng anh không sửa đổi, chị N và anh P đã sống ly thân, hiện không có khả năng hàn gắn đoàn tụ.

Đối với anh Đoàn Tấn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử cùng với kết quả xác minh về tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh P cho nên nội dung mà chị N đã trình bày về tình trạng hôn nhân giữa chị và anh là có căn cứ chấp nhận. Từ đó cho thấy mâu thuẫn của vợ chồng anh, chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N là phù hợp.

[4] Về con chung: cháu Đoàn Tấn H, sinh ngày 24/10/2012 hiện đang sống cùng chị N và chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy chị N có đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dạy cháu H để đảm con chung P triển tốt về thể chất, tinh thần đồng thời cháu Hoàng cũng có nguyện vọng sống với chị N. Vì vậy giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Đồng thời ghi nhận việc anh P không cấp dưỡng nuôi con chung do chị N không yêu cầu.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: chị N trình bày không có và không yêu cầu giải quyết; anh P không có lời trình bày về vần đề này, do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Chị N và anh P được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề tài sản chung, nợ chung trong vụ án dân sự khác (nếu có yêu cầu).

[6] Về án phí: chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn theo quy định pháp luật.

[7] Quan điểm của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận tòan bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; các Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 115 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị N. Chị Trần Thị N được ly hôn với anh Đoàn Tấn P.

Chị N và anh P không yêu cầu giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn.

2. Về con chung: chị Trần Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đoàn Tấn H, sinh ngày 24/10/2012 và ghi nhận việc anh P không cấp dưỡng nuôi con chung do chị N không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có căn cứ.

3. Về tài sản chung, nợ chung: chị N trình bày không có và không yêu cầu giải quyết; anh P không có lời trình bày về vần đề này nên không xem xét giải quyết. Chị N và anh P được quyền khởi kiện yêu cầu về việc giải quyết về vấn đề tài sản chung, nợ chung trong vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0002952 ngày 15/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú xem như đã nộp xong.

5. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về