Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 35/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 35/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 296/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2021, về việc: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2021/QĐXX-ST ngày 31 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐST-HNGĐ ngày 17/01/2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1983. Trú tại: Thôn T, xã P, huyện G, thành phố Hà Nội.

* Bị đơn: Anh Vũ Hồng A, sinh năm 1981.

Tạm trú tại: Thôn T, xã P, huyện G, Hà Nôi. ĐKHKTT: TTXN C, phường Đ, quận T, Hà Nội.

Có mặt: Chị H. Vắng mặt: Anh A lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày:

Chị và anh Vũ Hồng A, sinh năm 1981 kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 24/6/2004 tại UBND xã P, huyện G, thành phố Hà Nội theo quy định của pháp luật. Đây là kết hôn lần đầu của chị. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống với nhau tại nhà mẹ đẻ Anh A tại Thôn T, xã P, huyện G, Hà Nội. Quá trình vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận đến năm 2017 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Anh A không quan tâm chăm sóc vợ con, vun vén xây dựng hạnh phúc gia đình, rườu trè, cờ bạc, trai, gái, nợ nần, Tháng 8/2017, chị cùng hai con về sống cùng bố mẹ đẻ ở, sau đó Anh A có lên xin lỗi, hứa thay đổi để vợ chồng hàn gắn tôi đã nghĩ lại vì các con nên tháng 12/2017 chị cùng hai con về đoàn tụ với anh A cùng chung sống nuôi dạy con, làm ăn kinh tế. Tuy nhiên, được thời gian ngắn anh A lại chứng nào tật đó quay lại con đường cũ, mặc dù chị và hai bên gia đình đã rất nhiều lần khuyên bảo, động viên anh A thay đổi, anh A không những không thay đổi mà còn đánh đập, chửi bới, hành hạ chị và hai con. Mâu thuẫn căng thẳng trầm trọng tôi cùng hai con lại chuyển về sống cùng bố mẹ đẻ từ đầu năm 2021, kể từ đó đến nay anh A không một lần nào lên gặp hòa giải vợ chồng, không quan tâm đến vợ con. Vợ chồng sống ly thân, cắt đứt quan hệ sinh lý từ đầu năm 2021. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị yêu cầu được ly hôn với anh Vũ Hồng A.

Về con chung: Chị và anh A có 02 con chung là Vũ Hồng A1, sinh ngày 12/11/2004 và cháu Vũ Hồng Đ, sinh ngày 22/11/2007, Hiện nay cả hai cháu đang ở với tôi. Khi ly hôn, Chị H có nguyện vọng nuôi cả hai con chung vì hiện hai cháu đang ăn ở, ổn định và học tập tốt với chị. Đồng thời, chị có điều kiện nuôi con tốt hơn anh A. Để bảo đảm cuộc sống ổn định của tôi và con, chị đề nghị Tòa án xem xét giao cả hai cháu cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hoàng Thị H tự nguyện không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công sức, nợ chung: Chị và anh A không có tài sản chung, công sức hay nợ gì ai chung, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Quá trình tố tụng, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Vũ Hồng A nhưng anh A không đến Tòa án làm việc, không thể hiện ý kiến, không giao nộp, không cung cấp các tài liệu chứng cứ liên quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và cũng không tham gia các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo thông báo của Tòa án.

Tại phiên tòa:

Chị Hoàng Thị H vẫn giữ nguyên quan điểm được ly hôn đối với anh Vũ Hồng A; Về con chung: Khi ly hôn được nuôi 02 con chung là Vũ Hồng A1, sinh ngày 12/11/2004 và cháu Vũ Hồng Đ, sinh ngày 22/11/2007; Về cấp dưỡng nuôi con: tự nguyện không yêu cầu anh A phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Vũ Hồng A vắng mặt tại phiên tòa nên không có quan điểm.

* Đại diện Viện kiểm sát huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử chấp hành và thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Các đương sự: Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Bị đơn chấp hành chưa tốt các quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các điều 19, 56, 59, 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị hội đồng xét xử:

Chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị H vì mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ. Cho Chị H được ly hôn anh A.

Về con chung: Giao cho Chị H được nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Vũ Hồng A1, sinh ngày 12/11/2004 và cháu Vũ Hồng Đ, sinh ngày 22/11/2007. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh A đến khi con chung thành niên, đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Về tài sản chung vợ chồng: Các đương sự không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Áp dụng án phí theo quy định tại Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về chứng cứ và những tình tiết của vụ án tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Tòa án đã xác minh tại Công an xã P, huyện G, Hà Nội anh Vũ Hồng A có Hộ khẩu thường trú tại TTXN C, phường Đ, quận T, Hà Nội.

Có đăng ký tạm trú và hiện nay đang thường xuyên sinh sống tại Thôn T, xã P, huyện G, thành phố Hà Nội. Vì vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm.

[2] Về thủ tục: Anh Vũ Hồng A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do. Như vậy, Anh A đã cố tình gây khó khăn cho Chị H trong qúa trình giải quyết ly hôn tại Tòa án. Tòa án đã phải hoãn phiên tòa ngày 17/01/2022, đã tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, anh A vẫn vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh A theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và Anh A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện G, thành phố Hà Nội ngày 24/6/2004. Vì vậy, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hoà thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cách sống, không tìm được tiếng nói chung, không quan tâm, chia sẻ trách nhiệm người vợ, người chồng trong gia đình. Mâu thuẫn căng thẳng, đầu năm 2021 Chị H cùng hai con về sống cùng bố mẹ đẻ. Vợ chồng sống ly thân cuộc sống của ai người đó tự lo, anh A cũng không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng, không quan tâm gì đến cuộc sống của vợ và 2 con chung. Anh A không chấp hành pháp luật khi nhận được các văn bản tố tụng, triệu tập không đến làm việc, không thể hiện ý chí của mình về nội dung vụ án, gây khó khăn cho chị H khi làm thủ tục ly hôn.

Quá trình xác minh ý kiến tại địa phương xã P, huyện G, Hà Nội đã cũng được địa phương cung cấp thông tin anh chị đã sống ly thân gần 1 năm nay không chung sống để cùng nhau chăm sóc con chung.

Tòa án đã tiến hành xác minh ý kiến gia đình anh A, bà Lê Thị L (tên gọi khác O), sinh năm 1954 là mẹ đẻ của anh A, hiện đang sống cùng nhà với anh A cung cấp: Chị H và anh A kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên xảy ra xô xát cãi vã, chửi bới nhau, chị H cùng hai con về sống cùng bố mẹ đẻ từ đầu năm 2021, Chị H yêu cầu ly hôn với anh A đề nghị Tòa án căn cứ quy định pháp luật giải quyết.

Đại diện gia đình chị H là ông Hoàng Văn T (bố đẻ chị H) trình bày: Chị H và anh A mâu thuẫn đã lâu do anh A thường xuyên cờ bạc, rượu chè, gái gú, đi sớm về muộn có khi đi vài ba ngày, có khi đi vài ba tháng mới về, không quan tâm chăm sóc vợ con, vun vén xây dựng hạnh phúc gia đình, còn đánh đập, chửi bới vợ con. Vợ chồng tôi, bà L mẹ đẻ anh A và chị H vợ A đã khuyên bảo anh A nhiều lần nhưng không được. Năm 2017, chị H đưa hai con về ở với vợ chồng tôi, anh A có sang xin lỗi và hứa thay đổi xin được đoàn tụ, sau đó chị H và hai con về đoàn tụ với anh A. Tuy nhiên, sau khi đoàn tụ anh A vẫn chứng nào tật đó không thay đổi. Mâu thuẫn trầm trọng chị H cùng hai con về sống cùng vợ chồng tôi từ đầu năm 2021, anh A không đến gặp, thăm nom vợ con, hòa giải đoàn tụ gia đình, hỏi hạn gì chúng tôi. Chị H yêu cầy ly hôn với anh A thì đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết. Về con chung: Chị H và anh A có 02 con chung là Vũ Hồng A1, sinh ngày 12/11/2004 và cháu Vũ Hồng Đ, sinh ngày 22/11/2007. Hiện nay hai cháu đang ở cung chị H và vợ chồng tôi. Khi ly hôn đề nghị được Tòa án giao cho chị H nuôi dưỡng hai cháu, gia đình tôi sẽ giúp đỡ về chỗ ở và chăm sóc con giúp chị H.

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị H, anh A đã căng thẳng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin được ly hôn của chị H là chính đáng, phù hợp với quy định của Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị H và Anh A có hai con chung là cháu Vũ Hồng A1, sinh ngày 12/11/2004 và cháu Vũ Hồng Đ, sinh ngày 22/11/2007. Hiện tại hai con chung đang ăn ở, học tập ổn định với chị H. Khi ly hôn, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung cũng phù hợp nguyện vọng ở với chị H khi anh chị ly hôn của hai cháu. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị H tự nguyện không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng. Vì vây, chấp nhận yêu cầu của chị H về con chung giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hồng A1 và cháu Đ, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh A cho đến khi các con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. nh A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung, công sức, nợ: Chị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết .

[6] Về án phí : Chị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp của pháp luật.

[8[ Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm tại phiên tòa phù hợp với quy định của pháp luật và kết quả nghị án của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ: Khoản1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ: điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu,miễn,giảm, thu, nộp,quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; điểm 1.1 khoản 1Mục II Danh mục án phí,lệ phí Tòa án bán hành kem theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội .

Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị H. Cho chị Hoàng Thị H, sinh năm 1983 được ly hôn với anh Vũ Hồng A, sinh năm 1981.

Về con chung: Giao hai con chung là Vũ Hồng A1, sinh ngày 12/11/2004 và Vũ Hồng Đ, sinh ngày 22/11/2007 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con chung đủ tuổi trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Vũ Hồng A cho đến khi con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Anh Vũ Hồng A có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, công sực, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị Hoàng Thị H đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2020/0072792 ngày 08/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, thành phố Hà Nội. Xác nhận chị Hoàng Thị H đã nộp đủ tiền án phí.

Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Vũ Hồng A có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

468
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 35/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về