Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 149/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM KỲ, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 149/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 113/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Cát T, S năm 1991. Địa chỉ: Khối phố 4, phường An S, thành phố Tam K, tỉnh Quảng N, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phùng Ngọc Nhất S, S năm 1988. Địa chỉ: Khối phố 4, phường An S, thành phố Tam K, tỉnh Quảng N; vắng mặt (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, các buổi làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị Cát T trình bày:

Chị và anh S tự nguyện tìm hiểu, xây dựng gia đình, có đăng ký kết hôn tại UBND phường An Sơn, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam vào ngày 27-3-2013. Trong thời gian chung sống vợ chồng phát S nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là hai vợ chồng hay cãi vã, không hòa hợp. Anh S ham chơi cờ bạc, rượu chè, không quan tâm và chăm sóc gia đình, một mình chị phải lo cho con. Chị và anh S đã sống ly thân cách nay hơn 3 năm. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phùng Ngọc Mộc Niên, S ngày 01-01-2013. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng nhận nuôi cháu Niên đến tuổi thành niên. Chị không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay cháu Niên đang ở với chị. Thu nhập trung bình của chị hiện nay khoảng 8.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai anh Phùng Ngọc Nhất S trình bày:

Anh và chị T tự nguyện tìm hiểu, đến với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường An Sơn vào năm 2013. Trong thời gian chung sống, vợ chồng không hợp nhau nên vợ chồng anh đã sống ly thân khoảng hơn 3 năm. Chị T xin ly hôn thì anh đồng ý.

Về con chung: có 01 con chung là Phùng Ngọc Mộc Niên, S ngày 01-01-2013. Nếu ly hôn anh đồng ý giao cháu Niên cho chị T nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Kỳ tham gia phiên tòa: Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng. Nguyên đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đúng theo quy định của pháp luật, bị đơn vắng mặt tại phiên hòa giải và phiên tòa, đã không thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật và có ý kiến yêu cầu giải quyết vắng mặt nên xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định pháp luật.

Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 147, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, các Điều 51, 56, 58 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Cát T: Theo đó cho chị T ly hôn với anh S;

Về con chung: Đề nghị giao cháu Phùng Ngọc Mộc Niên, S ngày 01-01-2013 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên, anh S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Phạm Thị Cát T và anh Phùng Ngọc Nhất S tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung. Hiện nay anh, chị có đăng ký hộ khẩu và S sống tại thành phố Tam Kỳ nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ. Bị đơn anh S vắng mặt nhưng tại bản tự khai anh có yêu cầu và xin được vắng mặt tại các buổi làm việc, xét xử nên căn cứ quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh S là đảm bảo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Cát T và anh Phùng Ngọc Nhất S tự nguyện tìm hiểu và xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND phường An Sơn, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam vào ngày 27-3-2013 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Xét tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị Phạm Thị Cát T và anh Phùng Ngọc Nhất S thì thấy, trong thời gian chung sống vợ chồng anh chị xảy ra nhiều mâu thuẫn do không hợp nhau. Chị T trình bày đã nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng sau đó cuộc sống không thay đổi, vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên cãi vã nhau. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân cách nay hơn 3 năm. Hiện tại anh, chị không chung sống cùng nhau, phần ai người nấy sống, không ai quan tâm đến ai. Do đó, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh S.

Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến nay, anh S không tham gia các phiên họp và hòa giải. Tại Bản tự khai thì anh đồng ý ly hôn với chị T.

Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh S đã làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T với anh S.

[2.2] Về nuôi con chung: Vợ chồng T và anh S có 01 con chung là cháu Phùng Ngọc Mộc Niên, S ngày 01-01-2013. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng nhận nuôi cháu Niên đến tuổi thành niên và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung. Tại bản tự khai, anh S đồng ý giao cháu Niên cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, hiện nay cháu Niên đang ở với chị T, được chị T nuôi dưỡng, chăm sóc phát triển tốt. Nguyện vọng của cháu Niên là được ở với chị T. Anh S cũng thống nhất giao cháu Niên cho chị T nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Hội đồng xét xử xét thấy, để cho cháu Niên có điều kiện phát triển tốt nhất, phù hợp với nguyện vọng của các bên nên quyết định chấp nhận yêu cầu của chị T về nuôi con chung, giao cháu Phùng Ngọc Mộc Niên, S ngày 01-01-2013 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên là phù hợp. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về chia tài sản, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị T tự nguyện nhận chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 28, 39, 147, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 20/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Cát T.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Cát T và anh Phùng Ngọc Nhất S.

2. Về nuôi con chung:

Giao con chung là cháu Phùng Ngọc Mộc Niên, S ngày 01-01-2013 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Các bên có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở. Khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Phạm Thị Cát T nhận chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0001235 ngày 30 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Chị T đã nộp xong tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (23-8-2021). Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 149/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:149/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Kỳ - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về