Bản án về tranh chấp hụi số 98/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 98/2022/DS-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Trong ngày 31 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 174/2022/TLST-DS ngày 17 tháng 5 năm 2022 về việc tranh chấp “Hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 331/2022/QĐST-DS ngày 15 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim A, sinh năm 1988; nơi cư trú: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; xin vắng mặt

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1965; nơi cư trú: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; xin vắng mặt

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1966; nơi cư trú: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim A trình bày: Do quen biết, năm 2019-2020 âm lịch, bà có tham gia ba dây hụi cụ thể như sau:

Dây hụi thứ nhất hụi 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 25/11/2019 âm lịch, hụi có 24 hụi viên, trong giấy hụi ghi tên bà M nằm ở số thứ tự 22, hụi khui đến lần thứ 18 thì bà Đ tuyên bố bể hụi và ngưng khui hụi, số tiền dây hụi này bà Đ còn nợ bà 17.500.000 đồng.

Dây hụi thứ hai hụi 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 06/11/2020 âm lịch, hụi có 26 hụi viên, trong giấy hụi ghi tên bà M nằm ở số thứ tự 23, hụi khui đến lần thứ 5 thì bà Đ tuyên bố bể hụi và ngưng khui hụi, số tiền dây hụi này bà Đ còn nợ bà 4.500.000 đồng.

Tổng cộng 2 dây hụi bà Đ còn nợ bà 22.000.000 đồng. Bà Đ làm chủ hụi hưởng huê hồng để lo cho gia đình. Bà yêu cầu bà Nguyễn Thị Đ, ông Nguyễn Văn T có trách nhiệm liên đới trả cho bà số tiền hụi còn nợ 22.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Tại biên bản hòa giải ngày 20/6/2022 bà Nguyễn Thị Kim A rút lại yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 11.460.000 đồng, yêu cầu bà Đ trả số tiền vốn ông đã chầu cho bà Đ 10.540.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Đ trình bày: Bà A có tham gia 3 dây hụi do bà làm chủ hụi, bà thống nhất số tiền của dây hụi, thời gian khui hụi, số hụi viên mà bà A trình bày, số tiền bà A chầu hụi cho bà cụ thể như sau:

Dây hụi thứ nhất hụi 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 25/11/2019 âm lịch, hụi có 24 hụi viên, trong giấy hụi bà A tôi ghi tên bà M nằm ở số thứ tự 22, cụ thể lần chầu hụi như sau:

Lần thứ nhất khui 350.000 đồng, bà Achầu cho tôi 650.000 đồng Lần thứ hai khui 330.000 đồng, bà Achầu cho tôi 670.000 đồng Lần thứ ba khui 280.000 đồng, bà A chầu cho tôi 720.000 đồng Lần thứ tư khui 280.000 đồng, bà A chầu cho tôi 720.000 đồng Lần thứ năm khui 270.000 đồng, bà Achầu cho tôi 730.000 đồng Lần thứ sáu khui 330.000 đồng, bà Achầu cho tôi 670.000 đồng Lần thứ bảy khui 280.000 đồng, bà Achầu cho tôi 720.000 đồng Lần thứ tám khui 270.000 đồng, bà Achầu cho tôi 730.000 đồng Lần thứ chín khui 280.000 đồng, bà A chầu cho tôi 720.000 đồng Lần thứ mười khui 220.000 đồng, bà A chầu cho tôi 780.000 đồng Lần thứ mười một khui 250.000 đồng, bà A chầu cho tôi 750.000 đồng Lần thứ mười hai khui 280.000 đồng, bà A chầu cho tôi 720.000 đồng Lần thứ mười ba khui 300.000 đồng, bà A chầu cho tôi 700.000 đồng Lần thứ mười bốn khui 330.000 đồng, bà A chầu cho tôi 670.000 đồng Lần thứ mười năm khui 300.000 đồng, bà A chầu cho tôi 700.000 đồng Lần thứ mười sáu khui 300.000 đồng, bà A chầu cho tôi 700.000 đồng Lần thứ mười bảy khui 300.000 đồng, bà A chầu cho tôi 700.000 đồng Lần thứ mười tám khui 300.000 đồng, bà A chầu cho tôi 700.000 đồng Số tiền vốn dây hụi này tôi còn nợ bà A số tiền 12.750.000 đồng Dây hụi thứ hait hụi 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 06/11/2020 âm lịch, hụi có 26 hụi viên, trong giấy hụi bà Atôi ghi tên bà M nằm ở số thứ tự 23, cụ thể lần chầu hụi như sau:

Lần thứ nhất khui 220.000 đồng, bà A chầu cho tôi 780.000 đồng Lần thứ hai khui 220.000 đồng, bà A chầu cho tôi 780.000 đồng Lần thứ ba khui 220.000 đồng, bà A chầu cho tôi 780.000 đồng Lần thứ tư khui 220.000 đồng, bà A chầu cho tôi 780.000 đồng Lần thứ năm khui 230.000 đồng, bà A chầu cho tôi 770.000 đồng Số tiền vốn dây hụi này tôi còn nợ bà A số tiền 11.460.000 đồng Dây hụi thứ ba hụi 1.000.000, hụi khui ngày 25/11/2019 âm lịch, hụi có 26 hụi viên, bà A đã hốt hụi và còn nợ tôi số tiền hụi là 6.000.000 đồng Tổng cộng số tiền hụi khi đã khấu trừ số tiền dây hụi bà A đã hốt, bà còn nợ bà Nguyễn Thị Kim A 10.540.000 đồng.

Ông Nguyễn Văn T trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị Đ là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo quy định, việc bà Đ làm chủ hụi ông biết và đồng ý cùng bà Đ trả nợ cho bà A .

Tại phiên tòa: Nguyên đơn, bị đơn, nguời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xin xét xử vắng mặt Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 288, 471 Bộ luật dân sự, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim A.

Buộc bà Nguyễn Thị Đ, ông Nguyễn Văn T có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Kim A số tiền hụi còn nợ 10.540.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số hụi còn nợ của nguyên đơn đây là tranh chấp dân sự về hụi thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có nơi cư trú tại xã T, huyện C, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định Điều 26; 35; 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Thị Kim A khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Đ, ông Nguyễn Văn T trả số tiền hụi còn nợ. Đây là quan hệ tranh chấp về dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp hụi.

[3]. Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Căn cứ Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim A, bị đơn bà Nguyễn Thị Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T.

Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa hôm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[4]. Về thu thập chứng cứ:

Bị đơn bà Nguyễn Thị Đ thừa nhận còn nợ bà Nguyễn Thị Kim A số tiền hụi còn nợ 10.540.000 đồng. Vì vậy, nội dung thừa nhận của bà Đ thuộc trường hợp tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp, thừa nhận của bị đơn là chứng cứ để giải quyết vụ án.

* Về nội dung vụ án:

[5]. Về hợp đồng, yêu cầu khởi kiện: Bà A yêu cầu vợ chồng bà Nguyễn Thị Đ, ông Nguyễn Văn T trả số tiền hụi 10.540.000 đồng theo giấy hụi, các lần khui hụi bà A đã đưa cho bà Đ. Tại tờ tự khai của nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn thừa nhận có làm chủ hụi và nguyên đơn có tham gia dây hụi do bà làm chủ hụi do không có khả năng nữa nên bà ngưng không khui hụi và thừa nhận còn nợ bà A số tiền hụi 10.540.000 đồng. Bà A đã thực hiện đúng nghĩa vụ của hụi viên và chầu hụi đầy đủ cho bà Đ nhưng bà Đ tự ý ngưng không khui hụi nữa, bà Đ vi phạm nghĩa vụ đã giao kết, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà A. Căn cứ Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015 bị đơn có trách nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền hụi 10.540.000đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, bà A xin rút lại yêu cầu đối với số tiền 11.460.000 đồng. Xét thấy, bà A rút yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 11.460.000 đồng là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật và có lợi cho bị đơn, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 217, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ yêu cầu đối với số tiền 11.460.000 đồng.

[6]. Trách nhiệm liên đới: Bà A cho rằng đây là nợ chung của bà Đ, ông Tiếp nên bà Đ, ông Tiếp có trách nhiệm liên đới trả cho bà A số tiền còn nợ. Ông Tiếp cũng thừa nhận bà Đ làm chue hụi, bà A tham gia hụi do bà Đ làm chủ ông biết và ông đồng ý cùng bà Đ trả số tiền cồn nợ 10.540.000 đồng cho bà A . Do đó căn cứ Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 288 Bộ luật dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử buộc bà Đ, ông Tiếp có trách nhiệm liên đới trả cho bà A số tiền 10.540.000 đồng.

[7].Về yêu cầu tính lãi: Bà A không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[8]. Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Đ, ông Tiếp có trách nhiệm liên đới trả cho bà A số tiền vốn 10.540.000 đồng, và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về quan điểm giải quyết án.

[9]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim A được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, 35, 39, 68, 92; 144; 147,227, 228, 244 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 288, 471 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim A.

Buộc bà Nguyễn Thị Đ, ông Nguyễn Văn T có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Kim A số tiền vốn 10.540.000 (mười triệu năm trăm bốn mươi nghìn) đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Đ, ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 527.000 (năm trăm hai mươi bảy nghìn) đồng.

Bà Nguyễn Thị Kim A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 550.000 (năm trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu số 0004634 ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi số 98/2022/DS-ST

Số hiệu:98/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về