Bản án về tranh chấp hụi số 61/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 61/2022/DS-ST NGÀY 23/12/2022 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Trong ngày 23 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 105/2022/TLST-DS ngày 12 tháng 10 năm 2022 về viêc “Tranh chấp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2022/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1976 Địa chỉ: Ấp X, xã N. A, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

2. Bị đơn: Bà Đoàn Thị T, sinh năm 1976 Địa chỉ: Ấp X, xã N.A, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết tại Tòa án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn D trình bày:

Vào ngày 04/4/2020 âm lịch ông D có tổ chức dây hụi tháng, một tháng xổ một lần, dây chụi có 40 người tham gia và mức đóng là 3.000.000 đồng/chân (phần) hụi. Trong dây hụi này bà T tham gia chơi 01 chân hụi.

Bà T đóng hụi sống được 11 lần thì hốt hụi được số tiền 76.060.000 đồng. Sau khi hốt hụi bà T đóng hụi chết được 05 lần thì không đóng hụi nữa. Hiện nay bà T còn nợ 24 lần hụi chết bằng số tiền 72.000.000 đồng.

Sau khi bà T không đóng hụi ông D là chủ hụi nên đã phải đóng thay bà T 15 lần hụi chết cho các thành viên hốt được hụi bằng số tiền 45.000.000 đồng và hiện còn 09 lần sổ hụi trong 09 tháng nữa mới mãn hụi.

Trong đơn khởi kiện ông D yêu cầu bà T trả số tiền hụi là 72.000.000 đồng và cho trả dần trong đó 14 tháng đầu mỗi tháng trả 3.000.000 đồng, sau đó mỗi tháng trả 1.000.000 đồng cho đến khi hết số tiền hụi còn nợ.

Tại phiên tòa ông D thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà T trả số tiền 45.000.000 đồng do ông đã đóng hụi chết thay bà T 15 lần x 3.000.000 đồng/lần = 45.000.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, bà Đoàn Thị T có ý kiến trình bày như sau:

Bà T thừa nhận có chơi của ông D một chân hụi tháng trị giá 3.000.000 đồng, dây hụi có 40 người tham gia. Sau khi đóng hụi sống được 11 lần thì hốt hụi và đóng hụi chết thêm được 05 lần. Hiện còn nợ 24 lần hụi chết bằng 72.000.000 đồng.

Mặc dù đến nay dây hụi chưa mãn tuy nhiên bà T thống nhất nợ của ông D 72.000.000 đồng tiền hụi và đồng ý trả số nợ hụi 72.000.000 đồng nhưng xin trả nợ dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Qua yêu cầu khởi kiện và ý kiến của các đương sự đã thống nhất và không thống nhất với nhau các vấn đề sau:

Thống nhất: Ông Dvà bà T cùng thống nhất xác nhận bà T có chơi hụi do ông D làm chủ hụi. Cho đến nay bà Tcòn nợ của ông D 24 lần hụi chết tương ứng số tiền 72.000.000 đồng tiền hụi. Các đương sự cùng xác nhận việc chơi hụi không có sổ sách ghi chép chung nhưng khi hốt hụi các bên có làm biên nhận nhận tiền hốt hụi.

Không thống nhất: Ông D yêu cầu bà T trả số tiền ông D làm chủ hụi đã đóng hụi thay bà T tính đến ngày xét xử là 15 lần bằng 45.000.000 đồng. Bà T xác nhận số nợ. Tuy nhiên các đương sự không thống nhất được phương án trả nợ.

Kết quả thu thập chứng cứ:

Chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: 01 tờ giấy tập học sinh ghi việc giao tiền hụi có ký nhận của bên giao hụi và bên nhận hụi.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán, thư ký phiên tòa và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Không có kiến nghị về phần thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Thẩm quyền giải quyết vụ án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự và các đương sự đều có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên và quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Tranh chấp hụi”.

Tại phiên tòa hôm nay, ông Dthay đổi yêu cầu chỉ yêu cầu bà T phải hoàn trả số tiền mà ông D đã đóng hụi dùm tính đến thời điểm xét xử là 45.000.000 đồng. Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, căn cứ vào Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của ông D.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo xác nhận của ông D và bà T, vào 04/4/2020 âm lịch bà T có tham gia chơi 01 phần (chân) hụi trong dây hụi tháng do ông D làm chủ hụi, các đương sự thống nhất với nhau về thời gian áp hụi hụi, số phần hụi, giá trị từng phần hụi trong dây hụi. Các đương sự cũng thống nhất việc bà T đã hốt hụi nhưng không thực hiện việc đóng hụi đầy đủ cho tới khi mãn hụi.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông D và bà T đã thống nhất được với nhau về số tiền hụi mà bà Tcòn nợ của ông D là 72.000.000 đồng. Ngoài sự thống nhất về số nợ trong quá trình giải quyết vụ án còn có các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như giấy giao tiền hụi được các bên thừa nhận là những chứng cứ để xác định bà T có nợ tiền hụi của ông D là sự thật và yêu cầu khởi kiện của ông D là có căn cứ.

Do bà T vi phạm nghĩa vụ đóng hụi sau khi hốt hụi, căn cứ vào Điều 471 Bộ luật dân sự và Điều 16 và Điều 24 Nghị Định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính Phủ về Họ, hụi, biêu, phường cần buộc bà T phải trả cho ông D số tiền hụi mà ông Dđã đóng thay cho bà T tính đến ngày xét xử là ngày 23/12/2022 là 15 lần tương ứng với số tiền (15 lần đóng hụi x 3.000.000 đồng/lần = 45.000.000 đồng).

Đối với 09 lần hụi chết trong 09 tháng tiếp theo kể từ 04/12/2022 âm lịch tương ứng số tiền (9 lần đóng hụi x 3.000.000 đồng/lần = 27.000.000 đồng) hiện chưa đến các kỳ mở hụi, ông D chưa xuất tiền đóng thay bà T nên chưa xem xét buộc bà T phải trả khoản tiền này. Trường hợp kể từ ngày 04/12/2022 âm lịch trở đi bà T vẫn không thực hiện đóng hụi cho tới khi mãn hụi và ông D phải đóng thay bà cho bà T thì ông Dtiếp tục có quyền quyền khởi kiện yêu cầu bà T hoàn trả số tiền đã đóng hụi dùm này.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà T thống nhất trả ông D số tiền nợ hụi là 72.000.000 đồng tuy nhiên như phân tích ở trên, đến thời điểm xét xử ông D mới đóng hụi thay cho bà Tiến 15 lần tương ứng với số tiền 45.000.000 đồng và ông D cũng đã thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án án buộc bà T trả số tiền đã đóng hụi thay là 45.000.000 đồng , do đó cần buộc bà T có nghĩa vụ trả cho ông D số tiền ông D đã đóng hụi thay là 45.000.000 đồng ( Số tiền đóng hụi thay mới tính đến ngày 23/12/2022).

Bà T đề nghị được trả nợ dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ nhưng không được ông D đồng ý do đó không có cơ sở để chấp nhận đề nghị trả nợ dần của bị đơn.

[3] Về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Nguyên đơn không có yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về ý kiến phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề nghị hướng giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát huyện An Biên tại phiên tòa là có cơ sở và căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử đã xem xét và ghi nhận trong quá trình giải quyết vụ án.

[5] Về án phí của vụ án: 45.000.000 đồng x 5% = 2.250.000 đồng.

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên cần buộc bị đơn nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Ông D được hoàn trả số tiền đã nộp tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015;

- Điều 16, Điều 24 Nghị Định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính Phủ về Họ, hụi, biêu, phường;

- Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn D.

Buộc bà Đoàn Thị T có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn D số tiền nợ hụi tính đến ngày xét xử là ngày 23/12/2022 với số tiền là 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu đồng). Nghĩa vụ trả nợ được thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền ông Nguyễn Văn D không có yêu cầu nên không xem xét.

Kể từ ngày 23/12/2022 trở đi, vào mỗi kỳ mở hụi mà bà Đoàn Thị T vẫn không thực hiện đóng hụi cho tới khi mãn hụi và ông Nguyễn Văn D - là chủ hụi phải đóng hụi thay bà cho Đoàn Thị T thì ông Nguyễn Văn D tiếp tục có quyền khởi kiện yêu cầu bà Đoàn Thị T hoàn trả số tiền đã đóng hụi dùm này.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bà Đoàn Thị T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 2.250.000 đồng (Hai triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn D số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003557 ngày 12 tháng 10 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A.

3. Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 23/12/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi số 61/2022/DS-ST

Số hiệu:61/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về