Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 11/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 11/2022/DS–ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 25 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở TAND huyện Phú Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/ 2022/ TLST - DS ngày 24 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/ 2022/ QĐXX - ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐST - DS ngày 10/5/2022 giữa các đương sự:

* Đồng nguyên đơn: Bà Trần Thị É, sinh năm 1963, ông Nguyễn Danh Th, sinh năm 1958 Đều có HKTT: Số 91A, khu tập thể TCII, tổ dân phố số 6, phường Xuân Tảo, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Bà Trần Thị É ủy quyền cho ông Nguyễn Danh Th * Đồng bị đơn:

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1964 Hộ khẩu thường trú: Tiểu khu Phú Thịnh, thị trấn Phú Minh, huyện Phú xuyên, Thành phố Hà Nội.

- Ông Phùng Văn H, sinh năm 1960 Hộ khẩu thường trú: Số 7, ngách 65, ngõ Giếng, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

Ông Nguyễn Danh Thắng, bà Nguyễn Thị Hà có mặt; ông Phùng Văn H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đòi nợ bà Trần Thị É, ông Nguyễn Danh Th và những lời khai tại tòa ông Th trình bày:

Do vợ chồng bà Nguyễn Thị H và ông Phùng Văn H, ở tiểu khu Phú Thịnh, thị trấn Phú Minh, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội có mở cửa hàng vàng bạc kinh doanh. Nên ngày 11/8/2011 bà Én có gửi bà Hà 100.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng; ngày 11/9/2011 bà Én lại gửi bà Hà 100.000.000 đồng. lãi xuất 3%/tháng. Tổng 02 lần bà É gửi bà H là 200.000.000 đồng, được thể hiện trên hóa đơn bảo đảm vàng và có chữ ký của bà Hà, đóng dấu Công ty cổ phần vàng bạc đá quý H H. Bà Éđã nhiều lần đến gặp bà Hà, yêu cầu bà Hà trả nợ, nhưng bà Hà không trả mà có ý thức trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Tính đến nay đã hơn 10 năm, nên bà É, ông Th làm đơn khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Hà, ông Hải phải trả số tiền gốc là 200.000.000 đồng, còn số lãi bà Én, ông Thắng không yêu cầu vợ chồng bà Hà, ông Hải phải trả. Số tiền 200.000.000 đồng mà bà Én cho bà Hà vay là tiền của vợ chồng bà Én, ông Thắng.

Đồng bị đơn bà Nguyễn Thị Hà trình bầy: Vợ chồng bà Hà có mở cửa hàng vàng bạc kinh doanh tại nhà ở tiểu khu Phú Thịnh, thị trấn Phú Minh, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Nên ngày 11/8/2011 bà Én có gửi bà Hà 100.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng; ngày 11/9/2011 bà Én gửi 100.000.000 đồng, lãi xuất 3%/tháng. Tổng 02 lần bà Én gửi bà Hà 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), được thể hiện trên Hóa đơn bảo đảm vàng có chữ ký của bà Hà và đóng dấu của Công ty cổ phần vàng bạc đá quý Hải Hà. Sau khi bà Én gửi số tiền trên cho bà Hà, bà Hà lại cho chị Nguyễn Thị Cúc, sinh năm 1979, ở thôn Văn Minh, xã Văn Nhân, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội vay. Do chị Cúc đã lừa đảo vợ chồng bà Hà, nên vợ chồng bà Hà không có khả năng trả được số tiền vay của bà Én. Nay bà Én, ông Thắng yêu cầu vợ chồng bà Hà phải trả tiền trên, bà Hà sẽ có trách nhiệm trả bà Én, ông Thắng.

Ông Phùng Văn Hải: Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng ông Hải không có ý kiến gì về việc bà Trần Thị Én, ông Nguyễn Danh Thắng khởi kiện.

Tại phiên toà:

Các đương sự đều giữ nguyên quan điểm của mình và đều đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKSND huyện Phú Xuyên tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Đồng nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng; đồng bị đơn chưa chÊp hµnh ®Çy ®ñ nghÜa vô tè tông cña m×nh.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bà Nguyễn Thị Hà, ông Phùng Văn Hải phải trả cho bà Trần Thị Én, ông Nguyễn Danh Thắng tổng số tiền là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

Về tố tụng:

Việc ông Phùng Văn Hải, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng ông Hải vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Yêu cầu khởi kiện đòi tiền giữa đồng nguyên đơn bà Trần Thị Én, ông Nguyễn Danh Thắng và đồng bị đơn bà Nguyễn Thị Hà và ông Phùng Văn Hải là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của BLTTDS.

Về nội dung:

Về yêu cầu khởi kiện: Bà Trần Thị Én, ông Nguyễn Danh Thắng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc phía bị đơn bà Nguyễn Thị Hà và ông Phùng Văn Hải phải trả 200.000.000 đồng.

Xét yêu cầu khởi kiện của bà Én, ông Thắng và các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp cùng các tài liệu Tòa án thu thập, thì có căn cứ xác định bà Hà đã vay của bà Én 02 lần, tổng số tiền 200.000.000 đồng vào các ngày 11/8/2011, ngày 11/9/2011. Việc vay tiền trên giữa các bên được thể hiện trên hóa đơn bảo đảm vàng, có chữ ký của bà Hà làm căn cứ là đúng. Các bên đều thừa nhận là đúng số tiền cho nhau vay và chữ ký của mình là đúng, không có tranh chấp gì về số tiền vay.

Về người trả nợ: Trong khi bà Én, ông Thắng yêu cầu cả hai vợ chồng bà Hà, ông Hải cùng trả, thì bà Hà chỉ chấp nhận để bà Hà trả với lý do, bà Hà mới là người đứng ra vay, ông Hải không liên quan gì.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử không chấp nhận lý do này của bà Nguyễn Thị Hà vì:

Thứ nhất: Quan hệ giữa ông Hải, bà Hà là quan hệ vợ chồng, mà theo quy định Điều 219 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì "Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất" và "Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung", cho nên số tiền dù là bà Hà hay ông Hải vay của nguyên đơn phải được coi là tài sản chung của vợ chồng và đương nhiên khi có công nợ phát sinh, thì nghĩa vụ trả nợ cũng là nghĩa vụ chung của vợ chồng, hơn nữa bà Hà xác nhận, sau khi bà Hà vay được số tiền trên, vợ chồng bà Hà lại cho chị Nguyễn Thị Cúc, sinh năm 1979, ở thôn Văn Minh, xã Văn Nhân, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội vay để lấy lãi suất chênh lệnh phục vụ mục đích làm ăn kinh tế gia đình.

Thứ hai: Bà Hà còn sử dụng "Hóa đơn đảm bào vàng" của Công ty vàng bạc đá quý Hải Hà để làm giấy biên nhận tiền gửi, phía bà Hà xác nhận, đây là giao dịch mang tính cá nhân do bà Hà tự thực hiện chứ không sử dụng tư cách pháp nhân của Công ty do ông Phùng Văn Hải là người đại diện theo pháp luật, bởi Công ty của ông Phùng Văn Hải không có chức năng nhận gửi hoặc vay tiền. Qua xem xét đăng ký kinh doanh của Công ty, thấy Công ty vàng bạc đá quý Hải Hà, đúng là không có chức năng gửi hoặc cho vay tiền. Phía nguyên đơn cũng xác nhận đem tiền gửi là gửi cá nhân chứ không gửi cho Công ty nào.

Mặt khác về hình thức của hóa đơn đảm bảo vàng là để phục vụ cho hoạt động kinh doanh mua bán vàng, song nội dung của hóa đơn lại là xác nhận tiền gửi, cho vay, không liên quan gì đến mục đích, nội dung, cột, mục ghi trên hóa đơn. Nên về mặt pháp luật, Tòa chỉ xem đây là giao dịch giữa các cá nhân với nhau.

Từ những lý do trên, nên buộc cả bà Hà và ông Hải phải có trách nhiệm thanh toán 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) cho bà É, ông Th.

Đối với số tiền lãi từ khi bà É, ông Th cho bà H vay đến nay, do phía nguyên đơn không yêu cầu Tòa giải quyết. Xét yêu cầu của nguyên đơn là tự nguyện và không trái pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị H và ông Phùng Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Do bà H, ông Hải hoàn cảnh kinh tế khó khăn và có đơn xin miễn, giảm án phí , nên giảm ½ án phí dân sự sơ thẩm cho bà Hà và ông Hải.

Yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị É, ông Nguyễn Danh Th được pháp luật bảo vệ, nên bà É, ông Thắng không phải chị án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí cho bà Trần Thị Én, ông Nguyễn Danh Thắng đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 471, 474, 476 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị É, ông Nguyễn Danh Th đối với bà Nguyễn Thị H và ông Phùng Văn H.

Buộc bà Nguyễn Thị Hà và ông Phùng Văn H có trách nhiệm trả bà Trần Thị Én, ông Nguyễn Danh Th 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

Kể từ ngày các bên có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành không thanh toán số tiền phải thanh toán, thì hàng tháng còn phải trả cho bên được thi hành số tiền lãi theo mức lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H và ông Phùng Văn H phải chịu 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Trần Thị É, ông Nguyễn Danh Th số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0047760 ngày 24/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm, đồng nguyên đơn, đồng bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đồng nguyên đơn, đồng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 11/2022/DS-ST

Số hiệu:11/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về