Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 72/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG 

BẢN ÁN 72/2021/DS-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

 Ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 166/2020/TLST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXXST-DS ngày 25/02/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2021/QĐST-DS ngày 15/3/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần K, trụ sở: Số 40-42-44 Phạm Hồng Thái, phường V, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Đinh Công P1, sinh năm 1983, chức vụ: Tổ phó tín dụng Ngân hàng TMCP K, chi nhánh An Giang - phòng giao dịch CĐ; Địa chỉ liên lạc: số 26, đường Phan Văn Vàng, phường P B, thành phố CĐ, tỉnh An Giang. (ông P1 có mặt).

2. Bị đơn: Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1980; Cùng nơi cư trú: số 793, tổ 27, ấp Vĩnh Thuận, xã VTT (nay là thị trấn VTT), huyện P, tỉnh An Giang. (Bà T, bà Y vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, đại diện nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần K – ông Đinh Công P1 trình bày như sau:

Ngày 06/01/2018, Ngân hàng thương mại cổ phần K (gọi tắt là Ngân hàng) và bà Nguyễn Thị Kim Y, bà Nguyễn Thị Kim T có ký Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số LC-A 403402/HĐTD-CC (gọi tắt là Hợp đồng tín dụng), Khế ước nhận nợ ngày 08/01/2018 để vay số tiền 17.000.000 đồng, mục đích sử dụng tiền vay là để buôn bán nhỏ (tiểu thương), thời hạn vay 180 ngày, lãi suất cho vay 14,94%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, tính trên dư nợ gốc quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả. Hình thức trả là trả góp gốc, lãi theo định kỳ hàng ngày kể từ ngày 09/01/2018 đến ngày 07/7/2018, số tiền mỗi ngày là 101.388 đồng, ngày cuối trả là 103.988 đồng. Tài sản cầm cố tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho khoản vay là: Chiếc xe mô tô hiệu Honda Blade, biển kiểm soát 67D1 – 450.93, theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 013901 cấp ngày 02/11/2015. Tuy nhiên, Ngân hàng chỉ giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe, còn chiếc xe do bị đơn giữ theo Biên bản thỏa thuận gửi giữ tài sản ngày 08/01/2018.

Quá trình vay, tính đến ngày 07/02/2018, bị đơn chỉ trả được cho Ngân hàng số tiền nợ vốn là 1.888.889 đồng và tiền nợ lãi trong hạn là 208.751 đồng thì ngưng trả đến nay, còn nợ lại số tiền vốn 15.111.111 đồng và tiền lãi trong hạn. Khi đến hạn, đã nhiều lần nhắc nhở nhưng bị đơn vẫn chưa thanh toán được số tiền nợ còn lại cho Ngân hàng nên toàn bộ số tiền nợ vốn, lãi còn lại chuyển sang nợ quá hạn. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền nợ tính đến ngày 12/5/2020 tổng cộng là 23.243.110 đồng, trong đó tiền nợ vốn là 15.111.111 đồng, lãi trong hạn là 1.043.753 đồng, lãi quá hạn là 7.088.245 đồng, và yêu cầu bị đơn trả lãi phát sinh sau ngày 12/5/2020 theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến khi trả dứt nợ. Đồng thời yêu cầu duy trì phần cầm cố tài sản trong Hợp đồng tín dụng để đảm bảo cho việc thi hành án.

Ngày 16/11/2020, Ngân hàng có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc không yêu cầu phát mãi tài sản đã cầm cố để thu hồi nợ, chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ vốn, lãi còn lại và trả lãi phát sinh cho đến khi trả hết nợ.

Bà Nguyễn Thị Kim T có lời khai trình bày, bà và bà Nguyễn Thị Kim Y có ký tên vào Hợp đồng tín dụng để cho bà Kim Y vay của Ngân hàng K số tiền 17.000.000 đồng để mua xe, khi vay có cầm cố cho Ngân hàng chiếc xe hiệu Honda Blade biển số 67D1 – 450.93 để đảm bảo khoản vay. Chiếc xe do Ngân hàng gửi cho bà và bà Kim Y giữ và sử dụng, tuy nhiên hiện chiếc xe đã bị mất trộm, đã trình báo Công an, chờ giải quyết. Việc Ngân hàng khởi kiện, bà và bà Y đều biết và có nhận được Thông báo của Tòa án, nhưng do bận việc gia đình, không đến được. Bà thừa nhận có nợ Ngân hàng như Ngân hàng khởi kiện, đồng ý trả nợ nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có khả năng trả một lần, bà sẽ bàn bạc lại với bà Kim Y về phương thức trả nợ sau.

Bà Nguyễn Thị Kim Y vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và không có văn bản trình bày ý kiến về vụ án.

Tòa án đã tiến hành xác minh thì được biết bà Kim Y và bà Kim T vẫn còn đang sinh sống tại địa phương. Tòa án đã mở phiên hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

- Đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông P1 trình bày: Ngân hàng yêu cầu bà Y và bà T cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ còn lại tính đến ngày 31/3/2021 là 26.815.066 đồng, trong đó tiền nợ vốn là 15.111.111 đồng, tiền lãi trong hạn là 1.043.753 đồng, lãi quá hạn là 10.660.202 đồng và yêu cầu trả lãi phát sinh tiếp theo kể từ ngày 01/4/2021 theo mức lãi suất trên số tiền dư nợ gốc đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi trả hết nợ. Ngân hàng không yêu cầu xem xét hợp đồng gửi giữ tài sản và xin rút lại yêu cầu phát mãi tài sản cầm cố, không yêu cầu duy trì phần cầm cố tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số LC-A 403402/HĐTD-CC ngày 06/01/2018 .

Về án phí sơ thẩm: đề nghị buộc bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

- Bị đơn bà Kim T, Kim Y vắng mặt.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P phát biểu ý kiến về trình tự, thủ tục tố tụng trong vụ án và nêu quan điểm giải quyết vụ án:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Riêng về việc gửi Thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát trễ hạn và để vụ án quá hạn so với quy định, cần rút kinh nghiệm. Nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn vắng mặt tại các phiên họp, hòa giải là chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố giữa Ngân hàng K với bà Y, bà T được ký kết trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Do bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn trả toàn bộ số tiền nợ gốc, lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi trả hết nợ là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 116, 385, 463, 466, 468, 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ vốn, lãi còn lại tính đến ngày 31/3/2021 tổng cộng là 26.815.066 đồng và trả lãi phát sinh kể từ ngày 01/4/2021 cho đến khi trả hết nợ.

Nguyên đơn tự nguyện rút lại yêu cầu duy trì phần cầm cố tài sản trong Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số LC-A 403402/HĐTD/CC ngày 06/01/2018, không yêu cầu phát mãi tài sản đã cầm cố để thu hồi nợ nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 244 của Bộ luật Tố tụng Dân sự đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu đã rút.

Về án phí sơ thẩm: Đề nghị xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết:

Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp hợp đồng dân sự – hợp đồng tín dụng; bị đơn bà Kim Y, bà Kim T có địa chỉ cư trú tại ấp Vĩnh Thuận, xã VTT (nay là thị trấn VTT), huyện P, tỉnh An Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về sự có mặt, vắng mặt của đương sự:

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có mặt tại phiên tòa. Bị đơn bà Y, bà T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét thấy, căn cứ vào hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số số LC-A 403402/HĐTD-CC ngày 06/01/2018 giữa Ngân hàng K với bà Y, bà T mà nguyên đơn cung cấp và sự thừa nhận của bị đơn bà T, đã xác định các bên ký kết hợp đồng tín dụng đều trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, nội dung và hình thức không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 116, 117, 119, 463 của Bộ luật Dân sự 2015; khoản 16 Điều 4, Điều 90, Điều 91 của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng.

Khi vay, các bên thỏa thuận thời hạn vay 180 ngày, hình thức trả là trả góp vốn, lãi mỗi ngày kể từ ngày 09/01/2018 đến ngày 07/7/2018. Tuy nhiên, kể từ khi vay bị đơn chỉ trả được số tiền vốn 1.888.889 đồng và tiền lãi trong hạn là 208.751 đồng rồi ngưng trả đến nay. Tính đến ngày 31/3/2021, tổng số tiền nợ còn lại là 26.815.066 đồng, trong đó tiền nợ vốn là 15.111.111 đồng, tiền lãi trong hạn là 1.043.753 đồng, lãi quá hạn là 10.660.202 đồng Bị đơn bà T thừa nhận, bà và bà Y có ký hợp đồng tín dụng nêu trên với Ngân hàng K để vay số tiền 17.000.000 đồng và cầm cố tài sản như đã thỏa thuận. Bà thừa nhận còn nợ tiền vốn, lãi như Ngân hàng đã khởi kiện, đồng ý trả số tiền nợ cho Ngân hàng, tuy nhiên do hoàn cảnh khó khăn, bà không có khả năng trả nợ một lần, để bà bàn bạc lại với bà Y về phương thức trả nợ.

Riêng bà Kim Y mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng bà vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và không có văn bản trình bày ý kiến nên xem như bà đã tự từ bỏ quyền lợi của mình.

Do bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo Điều 2, Điều 4 của Hợp đồng tín dụng, đã nhiều lần nguyên đơn nhắc nhở nhưng bị đơn vẫn không thực hiện nên số tiền nợ còn lại của bị đơn đã chuyển sang nợ quá hạn. Do đó, căn cứ vào Điều 357, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 91, 95 của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn bà Y, bà T cùng có nghĩa vụ liên đới trả số tiền nợ vốn, lãi còn lại tính đến ngày 31/3/2021 là 26.815.066 đồng và trả lãi phát sinh trên số dư nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kể từ ngày 01/4/2021 cho đến khi trả hết số tiền nợ.

[2.2] Để đảm bảo khoản vay, bị đơn đã thỏa thuận với nguyên đơn về việc cầm cố tài sản để bảo bảo nghĩa vụ trả nợ tại Điều 3 của Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số LC-A 403402/HĐTD-CC ngày 06/01/2018, theo đó tài sản cầm cố là chiếc xe mô tô hiệu Honda Blade, biển kiểm soát 67D1 – 450.93 theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 013901 cấp ngày 02/11/2015. Hiện chiếc xe do bị đơn quản lý theo biên bản giữ theo Biên bản thỏa thuận gửi giữ tài sản ngày 08/01/2018. Còn giấy chứng nhận đăng ký xe bản chính do nguyên đơn đang giữ. Xét thấy nguyên đơn không có yêu cầu giải quyết về việc gửi giữ tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn xin rút yêu cầu duy trì phần cầm cố tài sản theo Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số LC-A 403402/HĐTD-CC ngày 06/01/2018 để đảm bảo thi hành án. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện và không trái với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 244 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, chấp nhận đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã rút là phù hợp.

[2.3] Đối với ý kiến trình bày của bà T cho rằng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có khả năng trả một lần, sẽ bàn lại với bà Y về phương thức trả nợ, đến nay cả bà T và bà Y không đưa ra được ý kiến, cơ sở chứng minh cho việc đề ra phương thức trả nợ và tại phiên tòa đại diện Ngân hàng vẫn giữ yêu cầu buộc trả nợ một lần, do đó không có cơ sở xem xét phương thức trả nợ của bà T, theo đó về thời gian và phương thức trả nợ, các bên có thể tự thực hiện tại giai đoạn thi hành án.

[2.4] Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 581.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: TU/2019/0003502 ngày 01/7/2020 của Chi cục T hành án dân sự huyện P.

Bị đơn bà Y, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.340.753 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271, Điều 273, Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015;

Căn cứ Điều 91, Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 12, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần K về việc yêu cầu duy trì phần cầm cố tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố tài sản số LC-A 403402/HĐTD-CC ngày 06/01/2018 để đảm bảo thi hành án.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần K đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Kim Y, bà Nguyễn Thị Kim T.

- Buộc bà Nguyễn Thị Kim Y và bà Nguyễn Thị Kim T có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần K tổng số tiền vốn, lãi tính đến ngày 31/3/2021 là 26.815.066 đồng (Hai mươi sáu triệu tám trăm mười lăm ngàn không trăm sáu mươi sáu đồng), trong đó số tiền nợ gốc là 15.111.111 đồng, số tiền lãi trong hạn là 1.043.753 đồng, số tiền lãi quá hạn là 10.660.202 đồng.

- Buộc bà Nguyễn Thị Kim Y và bà Nguyễn Thị Kim T còn có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần K số tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc (tiền nợ vốn) kể từ ngày 01/4/2021 theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố tài sản số LC-A 403402/HĐTD-CC ngày 06/01/2018 cho đến khi trả xong hết số tiền nợ.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bị đơn bà Nguyễn Thị Kim Y và bà Nguyễn Thị Kim T phải chịu 1.340.753 đồng (Một triệu ba trăm bốn mươi ngàn bảy trăm năm mươi ba đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần K được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 581.000 đồng (Năm trăm tám mươi mốt ngàn đồng) mà nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: TU/2019/0003502 ngày 01/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P.

4. Về quyền kháng cáo:

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 72/2021/DS-ST

Số hiệu:72/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về