Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 63/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 63/2023/DS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 24 tháng 05 năm 2023 tại Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 135/2022/TLST-DS ngày 8 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2023/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 3 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2023/QĐST-DS ngày 24 tháng 4 năm 2023, giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần A; Địa chỉ trụ sở: Tầng O1 và Tầng O2, Tòa nhà S - 11A đường P, phường B, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Trần Thị Hoài T, sinh năm 1985; ông Trần Hoàng T, sinh năm 1990; ông Nguyễn H, sinh năm 1997; Địa chỉ liên hệ: Tầng X Tòa nhà Y, số 26 đường U, Phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh - Là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 17/01/2022). (Bà Trần Thị Hoài T và ông Nguyễn H vắng mặt, ông Trần Hoàng T có mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc H, sinh năm 1984; Địa chỉ: Số 22/94L đường R, Phường N, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn tại đơn khởi kiện ngày 20/8/2021, trong quá trình giải quyết và xét xử vụ án có ông Trần Hoàng T là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Căn cứ Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A mà ông Nguyễn Quốc H (sau đây viết tắt là bị đơn) đã ký với Ngân hàng Thương mại Cổ phần A (sau đây viết tắt là nguyên đơn) về việc sử dụng thẻ tín dụng. Ngày 22/03/2018, nguyên đơn đồng ý cấp thẻ tín dụng cho bị đơn, chi tiết như sau: Thẻ tín dụng quốc tế A Platinum; số thẻ 513892xxxx7000; hạn mức 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng; tăng hạn mức vào ngày 06/05/2019 là 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng, tổng hạn mức nguyên đơn cấp 115.000.000 (Một trăm mười lăm triệu) đồng; lãi phí theo quy định của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A tại từng thời kỳ; mục đích sử dụng thẻ: tiêu dùng cá nhân.

Quá trình sử dụng thẻ tín dụng, ông Nguyễn Quốc H đã vi phạm nội dung thỏa thuận tại Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A mà bị đơn đã ký. Khoản tín dụng của ông Nguyễn Quốc H đã bị quá hạn thanh toán kể từ ngày 10/5/2019 và Ngân hàng Thương mại Cổ phần A đã chấm dứt sử dụng thẻ của ông H. Ngày 09/8/2021, Ngân hàng Thương mại Cổ phần A đã ra thông báo yêu cầu ông Nguyễn Quốc H trả nợ. Tuy nhiên, ông Nguyễn Quốc H vẫn không thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A. Ngày 19/8/2021, Ngân hàng Thương mại Cổ phần A đã gửi thông báo khởi kiện ông Nguyễn Quốc H tại Tòa án có thẩm quyền. Tổng số tiền ông Nguyễn Quốc H đã giao dịch là 1.332.629.100 (Một tỷ ba trăm ba mươi hai triệu sáu trăm hai mươi chín nghìn một trăm) đồng (trong đó tiền gốc: 1.213.500.000 (Một tỷ hai trăm mười ba triệu năm tram nghìn) đồng và tiền lãi, phí là 119.129.100 (Một trăm mười chín triệu một trăm hai mươi chín nghìn một trăm) đồng.

Tạm tính đến ngày 24/5/2023 ông Nguyễn Quốc H đã trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A số tiền gốc là 1.107.000.000 (Một tỷ một trăm lẻ bảy triệu) đồng và ông Nguyễn Quốc H còn nợ Ngân hàng Thương mại Cổ phần A số tiền là:

324.914.819 (Ba trăm hai mươi bốn triệu chín trăm mười bốn nghìn tám trăm mười chín) đồng, cụ thể:

+ Nợ gốc: 106.500.000 (Một trăm lẻ sáu triệu năm trăm nghìn) đồng.

+ Nợ lãi: 142.634.281 (Một trăm bốn mươi hai triệu sáu trăm ba mươi bốn nghìn hai trăm tám mươi mốt) đồng.

+ Phí: 75.780.538 (Bảy mươi lăm triệu bảy trăm tám mươi nghìn năm trăm ba tám) đồng.

Nguyên đơn đề nghị bị đơn trả số tiền nợ tạm tính đến ngày 24/5/2023 là 324.914.819 (Ba trăm hai mươi bốn triệu chín trăm mười bốn nghìn tám trăm mười chín) đồng làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và bị đơn phải tiếp tục trả lãi phát sinh kể từ ngày 25/5/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo quy định tại Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A đã ký.

Nguyên đơn xác định chỉ cho cá nhân bị đơn vay nên chỉ khởi kiện yêu cầu cá nhân bị đơn trả nợ, không yêu cầu đối với ai khác.

Về phía bị đơn ông Nguyễn Quốc H, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Quận 5 đã nhiều lần triệu tập bị đơn đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ kiện theo đúng quy định pháp luật nhưng bị đơn không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì, vắng mặt không có lý do, không có văn bản, ý kiến phản hồi mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án, tham gia phiên tòa.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5:

- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn, người đại diện của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A thì thỏa thuận giữa nguyên đơn và bị đơn là tự nguyện, phù hợp quy định của pháp luật. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đã vay theo Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A - Đây là “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” là loại tranh chấp được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh theo khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên toà nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2] Về chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh: Tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn không có ý kiến phản hồi và không phản bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì, vắng mặt không có lý do và không có ý kiến phản hồi. Căn cứ khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì bị đơn đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến Tòa án tham gia tố tụng, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án giải quyết vụ việc trên theo những chứng cứ có trong hồ sơ.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của đương sự:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn làm một lần ngay sau khi Bản án có hiệu lực thi hành, số tiền tạm tính đến ngày 24/05/2023 là 324.914.819 (Ba trăm hai mươi bốn triệu chín trăm mười bốn nghìn tám trăm mười chín) đồng, cụ thể: Nợ gốc: 106.500.000 (Một trăm lẻ sáu triệu năm trăm nghìn) đồng;

Nợ lãi: 142.634.281 (Một trăm bốn hai triệu sáu trăm ba mươi bốn nghìn hai trăm tám mốt) đồng; Phí: 75.780.538 (Bảy mươi lăm triệu bảy trăm tám mươi nghìn năm trăm ba mươi tám) đồng.

Và đề nghị bị đơn phải trả lãi phát sinh kể từ ngày 25/5/2023 cho đến khi bị đơn thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo quy định tại Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A. Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Căn cứ Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 do bị đơn yêu cầu và được Ngân hàng Thương mại Cổ phần A phê duyệt, tóm tắt sao kê thẻ tín dụng và các chứng cứ khác trong hồ sơ có cơ sở xác định bị đơn có đề nghị cấp thẻ tín dụng, đã được nguyên đơn chấp thuận phát hành và cho bị đơn sử dụng thẻ với hạn mức tín dụng là 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng; tăng hạn mức vào ngày 06/5/2019 là 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng, tổng hạn mức Ngân hàng Thương mại Cổ phần A cấp 115.000.000 (Một trăm mười lăm triệu) đồng; Lãi phí theo quy định của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A tại từng thời kỳ. Mục đích sử dụng thẻ: tiêu dùng cá nhân.

Quá trình sử dụng thẻ tín dụng, bị đơn đã vi phạm nội dung thỏa thuận tại Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A mà bị đơn đã ký. Khoản tín dụng của bị đơn đã bị quá hạn thanh toán kể từ ngày 10/5/2019. Ngày 09/8/2021, nguyên đơn đã ra thông báo yêu cầu bị đơn trả nợ. Tuy nhiên, bị đơn vẫn không thanh toán cho nguyên đơn. Tính đến ngày 24/05/2023 bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền là 324.914.819 (Ba trăm hai mươi bốn triệu chín trăm mười bốn nghìn tám trăm mười chín) đồng, cụ thể: Nợ gốc: 106.500.000 (Một trăm lẻ sáu triệu năm trăm nghìn) đồng; Nợ lãi: 142.634.281 (Một trăm bốn hai triệu sáu trăm ba mươi bốn nghìn hai trăm tám mốt) đồng; Phí: 75.780.538 (Bảy mươi lăm triệu bảy trăm tám mươi nghìn năm trăm ba mươi tám) đồng.

[3.2] Căn cứ theo các điều khoản ký kết trong Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A thì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Căn cứ khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay thì “bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Đến nay bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ tính đến 24/05/2023 là 324.914.819 (Ba trăm hai mươi bốn triệu chín trăm mười bốn nghìn tám trăm mười chín) đồng, cụ thể: Nợ gốc: 106.500.000 (Một trăm lẻ sáu triệu năm trăm nghìn) đồng; Nợ lãi:

142.634.281 (Một trăm bốn hai triệu sáu trăm ba mươi bốn nghìn hai trăm tám mốt) đồng; Phí: 75.780.538 (Bảy mươi lăm triệu bảy trăm tám mươi nghìn năm trăm ba mươi tám) đồng là phù hợp với các điều khoản trong theo Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 đã ký kết, phù hợp Điều 9 của Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A đính kèm theo Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên có cơ sở và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm bị đơn vẫn phải trả lãi theo mức lãi suất đã thỏa4 thuận tại Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A cho đến khi trả hết nợ.

[3.3] Về thời hạn trả nợ: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền còn nợ một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét thấy, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên với yêu cầu này của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu tiền án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là 8.122.870 (Tám triệu một trăm hai mươi hai nghìn tám trăm bảy mươi) đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã đóng theo quy định của pháp luật.

[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 68; khoản 4 Điều 91; Điều 92; Điều 147; Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 271; Điều 273; Điều 280 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 91 và khoản 2 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Luật phí, lệ phí năm 2015 và khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự. Xử:

1. Về hình thức: Xử vắng mặt bị đơn Nguyễn Quốc H.

2. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A.

2.1. Buộc ông Nguyễn Quốc H phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A tổng số tiền tính đến ngày 24/5/2023 là 324.914.819 (Ba trăm hai mươi bốn triệu chín trăm mười bốn nghìn tám trăm mười chín) đồng, cụ thể: Nợ gốc: 106.500.000 (Một trăm lẻ sáu triệu năm trăm nghìn) đồng; Nợ lãi: 142.634.281 (Một trăm bốn hai triệu sáu trăm ba mươi bốn nghìn hai trăm tám mốt) đồng; Phí: 75.780.538 (Bảy mươi lăm triệu bảy trăm tám mươi nghìn năm trăm ba mươi tám) đồng trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực thi hành.

2.2. Kể từ ngày 25/5/2023, ông Nguyễn Quốc H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Giấy Đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 22/3/2018 và Bản Chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng A cho đến khi thi hành án xong.

2.3. Về án phí dân sự sơ thẩm: 5 Ông Nguyễn Quốc H phải chịu 8.122.870 (Tám triệu một trăm hai mươi hai nghìn tám trăm bảy mươi) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.640.728 (Năm triệu sáu trăm bốn mươi nghìn bảy trăm hai mươi tám) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0010000 ngày 08/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án và bị đơn ông Nguyễn Quốc H có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 63/2023/DS-ST

Số hiệu:63/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về