Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 59/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 59/2022/DS-ST NGÀY 19/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 19 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 75/2022/TLST- DS ngày 10/5/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2022/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 162/2022/QĐST-DS ngày 02 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần S;

Đa chỉ: đường N, Quận C, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D – Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Song T - Chức vụ: Trưởng Phòng Giao dịch T - Ngân hàng Thương mại cổ phần S - Chi nhánh Sóc Trăng; Địa chỉ: ấp Đ, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Sóc Trăng – là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn theo văn bản ủy quyền ngày 27/4/2022. (Có mặt) - Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1985.

Đại chỉ: đường P, khóm C, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

(Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện lập ngày 27 tháng 4 năm 2022 của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng), cũng như tại phiên toà người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn Song Tiền trình bày:

Ngày 23/3/2017, ông Nguyễn Thanh T vi Ngân hàng Thương mại cổ phần S – chi nhánh Sóc Trăng ký Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng với hạn mức là 20.000.000 đồng. Loại thẻ Motor Card; số thẻ: 356480-5930; lãi suất vay 2,5%/tháng; Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông Nguyễn Thanh T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 42.700.000 đồng.

Lãi được tính trên từng giao dịch phát sinh theo từng ngày và theo lãi suất Ngân hàng áp dụng vào từng thời điểm khác nhau (Điều 22 của bản điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) Quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt đến nay ông Nguyễn Thanh T đã thanh T cho ngân hàng số tiền vốn và lãi 42.235.000 đồng. Do ông T vi phạm nghĩa vụ thanh T nên ngày 26/10/2021 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu tại thời điểm này là 22.300.503 đồng làm nợ gốc và áp dụng lãi suất quá hạn là 150% của lãi suất được công bố và áp dụng tại thời điểm hiện tại.

Tính đến ngày 19/8/2022, ông Nguyễn Thanh T còn nợ Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền vốn và lãi là 30.939.821 đồng (trong đó vốn gốc:

22.300.503 đồng; lãi quá hạn: 8.639.318 đồng).

Nay Ngân hàng Thương mại cổ phần S yêu cầu Tòa án giải quyết:

Buộc ông Nguyễn Thanh T phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền vốn và lãi tạm tính đến ngày 19/8/2022 là 30.939.821 đồng (trong đó vốn gốc: 22.300.503 đồng; lãi quá hạn: 8.639.318 đồng) và có trách nhiệm thanh T khoản lãi phát sinh từ ngày 20/8/2022 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định trong Hợp đồng.

Đi với bị đơn ông Nguyễn Thanh T: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã cấp, tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Các giấy triệu tập; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng ông Nguyễn Thanh T không có ý kiến bằng văn bản gửi cho Tòa án, cũng không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn, thực hiện đúng theo quy định tại các điều 68; 70; 71; 86 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn ông Nguyễn Thanh T không thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Thanh T, cư trú tại 377, đường Phạm Hùng, khóm 3, phường 8, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, thanh T số tiền vốn và lãi vay còn nợ là 30.939.821 đồng, theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 23/3/2017. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Về nội dung vụ án:

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần S về việc yêu cầu ông Nguyễn Thanh T trả số tiền gốc và lãi là 30.939.821 đng, thấy rằng:

Theo hợp đồng tín dụng (gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 23/3/2017, Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng và Phiếu yêu cầu kích hoạt thẻ ngày 07/4/2017) do nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S cung cấp có chữ ký và chữ viết tên của ông Nguyễn Thanh T. Tòa án đã thông báo cho ông Nguyễn Thanh T biết các tài liệu chứng cứ trên nhưng ông T không có ý kiến phản đối. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Đồng thời, sau khi vay, ông T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 42.700.000 đồng và trả được 42.235.000 đồng. Như vậy, Hội đồng xét xử xác định ông T đã vay tiền của Ngân hàng Thương mại cổ phần S theo hợp đồng tín dụng ngày 23/3/2017 với hạn mức sử dụng 20.000.000 đồng; lãi suất trong hạn 2,5%/tháng, quá hạn 3,75%/tháng.

[4]. Về tính hợp pháp của Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 23/3/2017, Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng và Phiếu yêu cầu kích hoạt thẻ ngày 07/4/2017. Các bên đều có đủ tư cách chủ thể, có đủ năng lực hành vi dân sự nên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng là hợp pháp. Hợp đồng được lập thành văn bản các bên đều tự nguyện ký tên, đóng dấu xác nhận nên hình thức hợp đồng hợp pháp. Các đương sự thỏa thuận về toàn bộ các điều khoản trong nội dung hợp đồng, tự nguyện ký kết, không bị lừa dối ép buộc và nội dung hợp đồng phù hợp với quy định pháp luật nên có hiệu lực và buộc các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo hợp đồng.

[5]. Ngân hàng Thương mại cổ phần S đã kích hoạt thẻ (giao thẻ và Pin) với hạn mức sử dụng là 20.000.000 đồng cho ông Nguyễn Thanh T. Sau khi nhận thẻ, ông T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 42.700.000 đồng và trả được 42.235.000 đồng nhưng từ ngày 25/10/2021 ông T đã vi phạm nghĩa vụ thanh T (không thanh T ít nhất số tiền tối thiểu của chủ thẻ cho đến kỳ phát hành thông báo tiếp theo) nên từ ngày 26 tháng 10 năm 2021, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn lại thành nợ quá hạn và yêu cầu ông Nguyễn Thanh T thanh T toàn bộ số tiền vốn và lãi quá hạn tính đến hết ngày 19/8/2022 là 30.939.821 đồng (trong đó vốn gốc: 22.300.503 đồng; lãi quá hạn: 8.639.318 đồng).

Do ông T vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận tại các Điều 18, 19, 20, 22, 23, 24 của Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng nên việc Ngân hàng yêu cầu trả số tiền còn nợ nêu trên là có căn cứ và phù hợp với Khoản 1 Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 và Điều 13 Thông tư số: 39/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ngân hàng Nhà nước Quy định về hoạt động cho vay của Tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có cơ sở chấp nhận.

[6] Đối với yêu cầu tiếp tục tính lãi phát sinh từ ngày 20 tháng 8 năm 2022 cho đến khi ông T trả hết nợ theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, xét yêu cầu này là phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết cũng như theo quy định tại Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Như đã phân tích ở trên đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

[8] Như đã phân tích trên, đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S được chấp nhận nên không phải chịu án phí.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.546.991 đồng theo quy định khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án;

[10] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

 - Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 và Khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;

- Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S:

- Buộc ông Nguyễn Thanh T có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền vốn và lãi tính đến hết ngày 19/8/2022 là 30.939.821 đồng (trong đó vốn gốc: 22.300.503 đồng; lãi quá hạn: 8.639.318 đồng).

- Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Nguyễn Thanh T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh T, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 23/3/2017 cho đến khi thanh T xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh T cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.546.991 đồng.

Ngân hàng Thương mại cổ phần S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng Thương mại cổ phần S được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 623.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0000468 ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 59/2022/DS-ST

Số hiệu:59/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về