Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 51/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 51/2022/DS-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 181/2021/TLST-DS ngày 02 tháng 7 năm 2021 về “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2022/QĐST-DS ngày 24 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 132/2022/QĐST-DS ngày 18 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:NH TMCP KL Trụ sở: số 40-42-44 PHT, phường VTV, thành phố RG, tỉnh KG.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Ngọc Minh, chức vụ: Tổng giám đốc;

Đại diện theo ủy quyền phê duyệt các thủ tục liên quan đến công tác xử lý nợ: Ông Lê Trung Việt, Chức vụ: Phó giám đốcNH TMCP KL (theo Quyết định số 74/QĐ-NHKL ngày 17/01/2022).

Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng:

+ Ông Lê Hữu Đức, sinh năm: 1981, chức vụ: Giám đốc NH TMCP KL – Chi nhánh An Giang;

+ Ông Phạm Quốc Độ, sinh năm: 1985, chức vụ: Trưởng phòng khách hàng cá nhân/khách hàng doanh nghiệp NH TMCP KL – Chi nhánh An Giang;

+ Ông Mai Quốc Bảo, sinh năm: 1988; chức vụ: Phó phòng khách hàng cá nhân –NH TMCP KL – Chi nhánh An Giang (Theo giấy ủy quyền số 143/UQ-NHKL ngày 25/02/2022).

Cùng địa chỉ: Lô 21, 22-A2 LTT, phường ML, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: + Ông Nguyễn VL, sinh năm 1974;

+ Bà Huỳnh Thị Kim L, sinh năm: 1978 Cùng địa chỉ: Số 1/63A, khóm TH, phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Nguyễn Thị Cẩm Ly, sinh năm: 1997;

+ Anh Nguyễn Thành Phát, sinh năm: 2000;

+ Anh Trần Trung Hiếu, sinh năm; 1991;

Cùng địa chỉ: Số 1/63A, khóm TH, phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

+ Cháu Nguyễn Thị Cẩm Vy, sinh ngày: 04/8/2010 Người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Thị Cẩm Vy: Ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L (cha mẹ ruột cháu Vy); Cùng địa chỉ: Số 1/63A, khóm TH, phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

+ Cháu Trần Hoàng Phúc, sinh ngày: 25/01/2017 Người đại diện theo pháp luật của cháu Trần Hoàng Phúc: Anh Trần Trung Hiếu và chị Nguyễn Thị Cẩm Ly (cha mẹ ruột cháu Phúc); Cùng địa chỉ: Số 1/63A, khóm TH, phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

(Tại phiên tòa có mặt ông Phạm Quốc Độ là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn NH TMCP KL; bị đơn bà Huỳnh Thị Kim L; bị đơn ông Nguyễn VL và những người có quyền lợi, nghĩa vụ vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơnNH TMCP KL có đại diện theo ủy quyền ông Phạm Quốc Độ trình bày:

Ngân hàng TMCP Kiên Long – Chi nhánh An Giang với ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L có ký hợp đồng tín dụng số 853/18/HĐNT/1200-5335 ngày 08/8/2018 và hợp đồng tín dụng từng lần số 944/19/HĐTD/1200-8333 ngày 31/10/2019 để vay số tiền 150.000.000 đồng, mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh gỗ xẻ, thời hạn vay: 12 tháng; ngày giải ngân: 31/10/2019, ngày đến hạn:

31/10/2020; lãi suất vay: 13,1%/năm, được điều chỉnh 03 tháng/lần và được tính bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm VNĐ kỳ hạn 12 tháng, lãi cuối kỳ do Ngân hàng công bố tại thời điểm thay đổi lãi suất vay cộng biên độ 3,8%/năm. Lãi suất nợ quá hạn: 150% lãi suất vay tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, tính trên dư nợ gốc quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất lãi chậm trả: 10%/năm, tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả lãi. Hình thức thanh toán: trả lãi hàng tháng, trả gốc cuối kỳ.

Để bảo đảm thực hiện hợp đồng, NH TMCP KL và ông Nguyễn VL, bà Huỳnh Thị Kim L đã ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 853/18/HĐTC- BĐS/1200-5335 ngày 08/8/2018, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP135336 (số vào sổ cấp GCN: CH04291), thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 41, diện tích 78,3m2 do Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp ngày 17/7/2013 mang tên ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L (đất tọa lạc tại: phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Tài sản thế chấp được đăng ký bảo đảm tại Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Long Xuyên ngày 08/8/2018. Trong quá trình vay vốn, ông Long và bà L chỉ thanh toán cho Ngân hàng được số tiền lãi tính đến ngày 31/8/2020 là 16.659.140 đồng. Khi đến hạn thanh toán nợ, Ngân hàng đã nhiều lần thông báo nhắc nhở nhưng ông VL và bà L không thực hiện đúng cam kết và hiện tại hợp đồng đã quá hạn nhưng ông bà vẫn chưa thanh toán dứt nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận tại hợp đồng đã ký.

Tại đơn khởi kiện,NH TMCP KL yêu cầu ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L trả tổng số nợ tính đến ngày 19/4/2021 là: 166.916.453 đồng (bao gồm: Tiền gốc: 150.000.000 đồng; Tiền lãi trong hạn: 3.233.836 đồng; Tiền phạt chậm trả lãi: 164.125 đồng; lãi quá hạn: 13.518.493 đồng).

Tại phiên tòa,NH TMCP KL yêu cầu ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L trả tổng số nợ tính đến ngày 12/5/2022 là: 198.730.471 đồng, trong đó, nợ gốc:

150.000.000 đồng, lãi trong hạn 3.233.836 đồng, tiền phạt chậm trả lãi: 507.886 đồng; lãi nợ quá hạn 44.988.750 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 13/5/2022 trên dư nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng trên cho đến khi thanh toán dứt nợ. Đồng thời, tiếp tục duy trì Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 853/18/HĐTC/BĐS/1200-5335 ngày 08/8/2018 được ký kết giữa đại diện Ngân hàng với ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L để bảo đảm việc thi hành án.

Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hợp đồng tín dụng số 853/18/HĐNT/1200-5335 ngày 08/8/2018 và hợp đồng tín dụng từng lần số 944/19/HĐTD/1200-8333 ngày 31/10/2019; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 08/8/2018; đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ ngày 31/10/2019; đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày 08/8/2018 của ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L.

Đối với chi phí xem xét thẩm định tại chỗ mà Quỹ tín dụng đã tạm ứng là 600.000 đồng theo biên nhận chi phí xem xét thẩm định tại chỗ ngày 24/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thì Ngân hàng yêu cầu ông VL, bà L phải chịu trách nhiệm hoàn lại cho Ngân hàng.

Bị đơn ông Nguyễn VL và Huỳnh Thị Kim L trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa trình bày ý kiến:

Ông Long và bà L xác định có ký các hợp đồng tín dụng, thế chấp và còn nợ các khoản nợ gốc, lãi như nội dung khởi kiện của Ngân hàng. Tuy nhiên, do công việc làm ăn ngày càng khó khăn nên ông bà chưa có khả năng thanh toán ngay số tiền này cho Ngân hàng. Do đó, ông bà đề nghị mỗi tháng trả cho Ngân hàng 10.000.000 đồng cho đến khi thanh toán hết số nợ và xin Ngân hàng giảm lãi.

Trường hợp, ông bà không thu xếp được việc thanh toán số tiền nợ cho Ngân hàng thì ông bà đồng ý tiếp tục duy trì Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 853/18/HĐTC/BĐS/1200-5335 ngày 08/8/2018 được ký kết giữa đại diện Ngân hàng với ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L để bảo đảm việc thi hành án.

Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của những người này về nội dung đơn khởi kiện của Ngân hàng.

Tại phiên tòa dân sự sơ thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn ông VL, bà L thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 463, 466 và Điều 467 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết 01/2019/NQ- HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền:

[1.1] NH TMCP KL (viết tắt: Ngân hàng) yêu cầu ông VL, bà L trả tiền vay và lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 853/18/HĐNT/1200-5335 ngày 08/8/2018, yêu cầu duy trì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 853/18/HĐTC-BĐS/1200-5335 ngày 08/8/2018. Do đó, xác định đây là quan hệ tranh chấp về hợp đồng tín dụng được quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông VL và bà L có địa chỉ tại số 1/63A, khóm TH, phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và Điều 39 luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] NH TMCP KL (viết tắt: Ngân hàng) do ông Trần Ngọc Minh - chức vụ: Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật, ủy quyền cho ông Lê Trung Việt (theo Quyết định về việc ủy quyền phê duyệt các thủ tục liên quan đến công tác xử lý nợ số 74/QĐ-NHKL ngày 17/01/2022). Ông Lê Trung Việt ủy quyền lại cho ông Phạm Quốc Độ, chức vụ: Trưởng phòng khách hàng cá nhân –NH TMCP KL – Chi nhánh An Giang (theo giấy ủy quyền số 143/UQ-NHKL ngày 25/02/2022). Thủ tục ủy quyền trên là phù hợp theo quy định tại các Điều 85, Điều 86 Bộ luật tố tụng dân sự, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận ông Độ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền.

[1.3] Bị đơn ông Nguyễn VL, bà Huỳnh Thị Kim L và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được Tòa án cấp tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và quyết định xét xử vắng mặt ông Long, bà L và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[2] Về nội dung:

[2.1] Ngày 08/8/2018, Ngân hàng TMCP Kiên Long với ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L ký hợp đồng tín dụng số 853/HĐNT/1200-5335 để vay số tiền 150.000.000 đồng; mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh gỗ xẻ; Thời hạn vay 12 tháng, kể từ ngày 31/10/2019 đến ngày 31/10/2020; lãi suất: 13,1%/năm, được điều chỉnh 03 tháng/lần, biên độ 3,8%/năm; lãi suất nợ quá hạn: 150% lãi suất trong hạn; lãi suất lãi chậm trả: 10%/năm (tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả lãi); hình thức thanh toán: trả lãi hàng tháng, trả gốc cuối kỳ.

Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán, bị đơn đã thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP135336 (số vào sổ cấp GCN: CH04291), thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 41, diện tích 78,3m2 do Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp ngày 17/7/2013 mang tên ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L (đất tọa lạc tại: phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang), tài sản thế chấp được đăng ký bảo đảm tại Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Long Xuyên ngày 08/8/2018.

[2.2] Hội đồng xét xử xét thấy hợp đồng tín dụng số 853/HĐNT/1200-5335 ngày 08/8/2018 giữa NH TMCP KL với ông KL, bà L được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, hình thức và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định của pháp luật nên đây là hợp đồng hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được quy định tại các Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015. Trong quá trình thực hiện hợp đồng phía ông Long, bà L đã không thực hiện nghĩa vụ trả vốn, lãi suất đúng hạn là vi phạm nghĩa vụ của bên vay theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Do đó, việc Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông VL, bà L trả tổng số tiền 198.730.471 đồng (tính đến ngày 12/5/2022), trong đó, nợ gốc: 150.000.000 đồng, lãi trong hạn 3.233.836 đồng, tiền phạt chậm trả lãi: 507.886 đồng; lãi nợ quá hạn 44.988.750 đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Ngoài ra, do ông VL, bà L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên phải có nghĩa vụ trả tiền lãi theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ với Ngân hàng là phù hợp quy định pháp luật.

[2.3] Đối với yêu cầu duy trì Hợp đồng thế chấp của Ngân hàng thì thấy để đảm bảo khoản nợ vay, Ngân hàng với ông VL, bà L ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 853/18/HĐTC/BĐS/1200-5335 ngày 08/8/2018 và đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Long Xuyên ngày 08/8/2018, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP135336 (số vào sổ cấp GCN: CH04291), thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 41, diện tích 78,3m2 do Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp ngày 17/7/2013 mang tên ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L (đất tọa lạc tại: phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Tài sản thế chấp được đăng ký bảo đảm tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên ngày 08/8/2018. Xét nội dung và hình thức của hợp đồng thế chấp trên phù hợp với quy định của pháp luật nên có cơ sở chấp nhận.

Trường hợp ông VL, bà L không trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng đất số BP135336 (số vào sổ cấp GCN: CH04291), thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 41, diện tích 78,3m2 do Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp ngày 17/7/2013 mang tên ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L (đất tọa lạc tại: phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) để thu hồi nợ theo Hợp đồng thế chấp bất động sản số 53/18/HĐTC/BĐS/1200-5335 ngày 08/8/2018.

Trường hợp việc xử lý tài sản thế chấp chưa thanh toán hết các khoản nợ thì ông Long, bà L còn phải thanh toán tiếp cho đến khi trả hết nợ.

[4] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ:

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên căn cứ vào Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự bị đơn phải có nghĩa vụ chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Ngân hàng đã tạm ứng nên ông VL, bà L có nghĩa vụ hoàn lại 600.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ cho Ngân hàng.

[5] Về án phí dân sự:

Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên ông VL, bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 357; 463; 466 và 470 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Kiên Long đối với ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L.

Buộc ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L cùng có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TMCP Kiên Long (do NH TMCP KL – Chi nhánh An Giang đại diện) nhận tổng số tiền 198.730.471 đồng (một trăm chín mươi tám triệu, bảy trăm ba mươi nghìn, bốn trăm bảy mươi mốt đồng) (tính đến ngày 12/5/2022), trong đó, nợ gốc: 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng), lãi trong hạn 3.233.836 đồng (ba triệu hai trăm ba mươi ba nghìn, tám trăm ba mươi sáu đồng), tiền phạt chậm trả lãi: 507.886 đồng (năm trăm lẻ bảy nghìn tám trăm tám mươi sáu đồng); lãi nợ quá hạn 44.988.750 đồng (bốn mươi bốn triệu, chín trăm tám mươi tám nghìn, bảy trăm năm mươi đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (13/5/2022) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thanh toán theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 853/18/HĐNT/1200-5335 ngày 08/8/2018. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông VL, bà L phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Trường hợp ông VL, bà L không trả nợ cho NH TMCP KL (do NH TMCP KL – Chi nhánh An Giang đại diện) thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng đất số BP135336 (số vào sổ cấp GCN: CH04291), thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 41, diện tích 78,3m2 do Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp ngày 17/7/2013 mang tên ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L (đất tọa lạc tại: phường MT, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) để thu hồi nợ theo Hợp đồng thế chấp bất động sản số 53/18/HĐTC/BĐS/1200-5335 ngày 08/8/2018.

Trường hợp việc xử lý tài sản thế chấp chưa thanh toán hết các khoản nợ thì ông VL, bà L còn phải thanh toán tiếp cho đến khi trả hết nợ.

- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ:

Ông VL và bà L có nghĩa vụ hoàn lại cho NH TMCP KL (do NH TMCP KL – chi nhánh An Giang đại diện nhận) số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng).

- Về án phí:

Ông Nguyễn VL và bà Huỳnh Thị Kim L phải chịu 9.936.524 đồng (chín triệu chín trăm ba mươi sáu nghìn năm trăm hai mươi bốn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng TMCP Kiên Long (do NH TMCP KL – Chi nhánh An Giang đại diện) được nhận lại số tiền 4.173.000 đồng (bốn triệu một trăm bảy mươi ba nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000551, ngày 02/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.

- Về quyền kháng cáo:

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 51/2022/DS-ST

Số hiệu:51/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về