Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 48/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 48/2022/DS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 28/2022/TLST-DS ngày 24 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2022/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 133/2022/QĐST-DS ngày 26 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Mua bán nợ G; địa chỉ: tầng 1 và 2, tòa nhà PVL T, số 5 đường D1, phường L, thành phố Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: anh Nguyễn Anh C, sinh năm 1989, chức vụ: chuyên viên tố tụng của Công ty Luật TNHH MTV S; địa chỉ: số 89 H, phường X, quận L, thành phố Đ.

2. Bị đơn: chị Nguyễn Thị Kim V, sinh năm 1989;

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên bị đơn: anh Trần Văn B, sinh năm 1983;

Cùng địa chỉ: tổ dân phố A, thị trấn A, huyện S, tỉnh N.

Đại diện nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/5/2022 và tại bản tự khai, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: vào ngày 11/01/2017, chị Nguyễn Thị Kim V ký hợp đồng tín dụng số 20170116-0000582 với Công ty tài chính TNHH V (gọi tắt là FC) vay số tiền 52.750.000 đồng với lãi suất thoả thuận 2.91%/tháng để tiêu dùng cá nhân. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, chị V có trách nhiệm thanh toán số tiền 85.882.289 đồng (gồm cả gốc và lãi), trả chậm liên tiếp trong vòng 36 tháng, 35 tháng đầu mỗi tháng trả 2.387.000 đồng, tháng cuối cùng trả 2.337.289 đồng, bắt đầu từ ngày 18/02/2017. Thực hiện hợp đồng, chị V đã nhận đủ số tiền để tiêu dùng cá nhân và thanh toán cho FC 16 lần với tổng số tiền đã trả 39.013.000 đồng. Kể từ ngày 05/11/2018 đến nay, chị V không thanh toán thêm bất cứ khoản nào dù Công ty đã dùng nhiều biện pháp nhắc nhở. Ngày 28/12/2018, khoản nợ của chị V đã được FC chuyển nhượng cho Công ty TNHH Mua bán nợ G theo Hợp đồng mua bán nợ số VPBFC- CEOO-18-0006. Nay Công ty TNHH Mua bán nợ G yêu cầu Tòa án buộc chị V trả một lần cho Công ty toàn bộ số tiền nợ còn lại là 46.869.289 đồng, trong đó nợ gốc là 33.134.548 đồng và nợ lãi tính đến ngày 18/01/2020 là 13.734.741 đồng.

Tại bản tự khai, bị đơn - chị Nguyễn Thị Kim V trình bày: vào ngày 11/01/2017, chị có vay của VPB SMBC FC số tiền 52.750.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng, lãi suất 2,91%/tháng. Theo hợp đồng tín dụng, chị đã nhận đủ số tiền vay và đã trả được tổng số tiền 39.013.000 đồng. Thời gian sau nguyên đơn có đăng chị lên mạng, cho giang hồ vào nhà hăm dọa ba mẹ, anh chị em của chị, làm ảnh hưởng đến công việc của chị. Nay chị thống nhất trả số tiền nợ gốc là 33.134.548 đồng và xin miễn số tiền nợ lãi là 13.734.741 đồng. Số tiền vay trên chị sử dụng vào mục đích cá nhân không liên quan đến gia đình.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh B, nhưng anh B vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: chị Nguyễn Thị Kim V cư trú tại tổ dân phố A, thị trấn A, huyện S, tỉnh N. Nguyên đơn nhận chuyển nhượng khoản nợ từ FC, do đó nguyên đơn kế thừa quyền và nghĩa vụ của FC. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chị V trả tổng số tiền 46.869.289 đồng, vì vậy quan hệ pháp luật giải quyết là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn theo quy định tại khoản 3 Điều 26, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về hiệu lực của hợp đồng tín dụng: hợp đồng tín dụng số 20170116- 0000582 ngày 11/01/2017, được ký kết trên cơ sở tự thỏa thuận và hoàn toàn tự nguyện. Tại thời điểm giao kết, các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Hợp đồng đảm bảo về mặt hình thức và nội dung không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Do đó, hợp đồng trên có hiệu lực pháp luật.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Theo hợp đồng tín dụng số 20170116-0000582 ngày 11/01/2017, chị Nguyễn Thị Kim V vay của FC số tiền 52.750.000 đồng, lãi suất 2.91%/tháng để tiêu dùng cá nhân, trả chậm liên tiếp trong vòng 36 tháng, 35 tháng đầu mỗi tháng trả 2.387.000 đồng, tháng cuối cùng trả 2.337.289 đồng, bắt đầu từ ngày 18/02/2017. Tuy nhiên, đến nay chị V mới trả được tổng số tiền 39.013.000 đồng, bao gồm cả nợ gốc và nợ lãi. Kể từ ngày 05/11/2018, chị V không thanh toán thêm bất kỳ khoản nào. Như vậy, chị V đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, Công ty TNHH Mua bán nợ G khởi kiện yêu cầu chị V trả một lần tổng số tiền là 46.869.289 đồng, trong đó nợ gốc là 33.134.548 đồng và nợ lãi 13.734.741 đồng tính đến ngày 18/01/2020 là có căn cứ.

Hợp đồng tín dụng chỉ mình chị V ký kết với FC, không có văn bản ủy quyền của anh B. Tại bản tự khai chị V cho rằng chị vay để tiêu xài cá nhân không sử dụng chung cho gia đình và Công ty TNHH Mua bán nợ G chỉ yêu cầu chị V thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do đó, không có căn cứ yêu cầu anh B liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ với chị V.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 91, khoản 2 Điều 95, Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc chị V có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH Mua bán nợ G tổng số tiền 46.869.289 đồng, trong đó nợ gốc là 33.134.548 đồng và nợ lãi là 13.734.741 đồng.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: chị V phải chịu quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 91, khoản 2 Điều 95, Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Mua bán nợ G về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

1. Chị Nguyễn Thị Kim V có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH Mua bán nợ G tổng số tiền 46.869.289 đồng, trong đó nợ gốc là 33.134.548 đồng và nợ lãi là 13.734.741 đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Kim V phải chịu là 2.343.000 (Hai triệu ba trăm bốn mươi ba nghìn) đồng. Trả lại cho Công ty TNHH Mua bán nợ G số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 1.170.000 (Một triệu một trăm bảy mươi nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004688 ngày 24 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 48/2022/DS-ST

Số hiệu:48/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về