Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 42/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IA GRAI, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 42/2022/DS-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 22 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số 203/2021/TLST-DS ngày 28 tháng 10 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng N Địa chỉ: 02 L, phường T, quận B, thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn T, chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Cao Tấn Đ, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng N.

Người được ủy quyền lại: Ông Bùi Nhứt V - chức vụ: Phó Trưởng phòng phụ trách phòng Kế hoạch - Kinh doanh Ngân hàng N(có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Đ Địa chỉ: thôn T, xã I, huyện Ia, tỉnh G (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đại diện nguyên đơn trình bày: Ngân hàng N (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) cho ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Đ vay số tiền 600.000.000đ theo hợp đồng tín dụng số 1677/2019/TD ngày 23/4/2019 để chăm sóc cà phê và sửa chữa nhà ở; lãi suất cho vay là 10%/năm (tại thời điểm vay) với thời hạn 12 tháng. Để đảm bảo khoản vay trên, giữa Ngân hàng với bị đơn có ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản găn liền với đất số 2350315/HĐTC ngày 25/3/2015 và Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản găn liền với đất số 01/2350315/PLHĐTC ngày 23/4/2019 đối với các tài sản sau:

- Quyền sử dụng 4.000m2 đất tại thửa số 59, 73; tờ bản đồ số 02, địa chỉ xã I, huyện Ia, tỉnh G theo giấy CNQSD đất số BN 436593 do UBND huyện Ia Grai cấp ngày 28/6/2013 - Quyền sử dụng 20.725m2 đất tại thửa số 41, 46, 50; tờ bản đồ số 54, địa chỉ xã I, huyện Ia, tỉnh G theo giấy CNQSD đất số BI 7100551 do UBND huyện Ia Grai cấp ngày 07/5/2012, được chỉnh lý sang tên ngày 03/6/2014.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng từ ngày 23/9/2019 ông S và bà Đ chỉ trả được 10.000.000đ tiền gốc, lãi 135.606đ. Ngày 23/4/2020 khoản vay của ông S và bà Đ thành nợ quá hạn.

Nay nguyên đơn đề nghị bị đơn thanh toán tiền gốc còn lại là 590.000.000đ, lãi trong hạn là 60.328.768đ, lãi quá hạn đến ngày 22/7/2022 là 194.971.233đ và tiền lãi chậm trả lãi trong hạn là 15.828.021đ. Tổng cộng cả gốc và lãi là 861.128.022đ. Nếu bị đơn không trả nợ đầy đủ thì đề nghị Toà án xử lý tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ, bị đơn phải trả lại cho Ngân hàng 5.000.000đ chi phí xem xét thẩm định và phải chịu án phí.

Bị đơn ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Đ đã được Toà án đã cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng để thực hiện quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không rõ lý do, cũng không có ý kiến trình bày gửi cho Toà án.

Phát biểu quan điểm, Kiểm sát viên cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật; tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng kể từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến trước khi nghị án. Về nội dung, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 2 và khoản 3 Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 317, 318, 319, 323, 463, 466, 500, 501, 502 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 167 và Điều 168 Luật đất đai năm 2013; Điều 91, 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bị đơn phải trả nợ gốc và lãi của hợp đồng tín dụng. Nếu bị đơn không trả được nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị buộc bị đơn phải chịu án phí và xử lý tiền chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Ngân hàng N khởi kiện ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Đ để yêu cầu trả tiền nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng. Ngoài ra Ngân hàng còn yêu cầu Toà án xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ. Do vậy đây là tranh chấp về Hợp đồng tín dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa, do vậy việc xét xử vắng mặt họ là đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Hợp đồng tín dụng số 1677/2019/HĐTD ngày 23/4/2019 có nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự 2015 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 nên phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Trong thời hạn vay, bị đơn chỉ trả được 10.000.000đ tiền nợ gốc và 135.606đ tiền lãi cho nguyên đơn. Khi đến hạn trả nợ ngày 23/4/2020 bị đơn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho nguyên đơn như đã thỏa thuận là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, nên nguyên đơn khởi kiện buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền nợ gốc còn lại là 590.000.000đ theo hợp đồng tín dụng nói trên là có căn cứ pháp luật.

[3]. Về yêu cầu trả nợ lãi trong hợp đồng tín dụng: Xét sự thỏa thuận về mức lãi suất vay của các bên trong hợp đồng tín dụng nêu trên (lãi trong hạn 10%/năm, lãi quá hạn = 150% lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng) là phù hợp với quy định của Điều 11 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và Luật Các tổ chức tín dụng và Bộ luật dân sự. Tại phiên tòa đại diện nguyên đơn cung cấp bảng tính lãi trong đó có xác định rõ lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả, lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả và lãi châm trả lãi tương ứng với thời hạn vay và trả nợ là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn 590.000.000đ tiền nợ gốc còn lại, lãi trong hạn là còn lại là 60.328.768đ, lãi quá hạn đến ngày 22/7/2022 là 194.971.233đ và tiền lãi chậm trả lãi trong hạn là 15.828.021đ. Tổng cộng cả gốc và lãi là 861.128.022đ.

[4]. Về việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 2350315/HĐTC ngày 25/3/2015 và Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản găn liền với đất số 01/2350315/PLHĐTC ngày 23/4/2019 có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật. Hợp đồng đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật về giao dịch bảo đảm nên có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ thể hiện: tài sản thế chấp thuộc quyền sử dụng của bên thế chấp và không có tranh chấp. Do đó, trường hợp bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn theo hợp đồng tín dụng nói trên, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu xử lý toàn bộ tài sản đã thế chấp (bao gồm cả quyền sử dụng đất và toàn bộ các tài sản gắn liền với đất tại thời điểm xử lý) để thu hồi nợ.

[5]. Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, đại diện Ngân hàng đã đã tạm nộp tiền chi phí xem xét và thẩm định tại chỗ là 5.000.000đ. Số tiền trên đã chi đủ cho cho công việc thẩm định. Căn cứ vào điều 157 và 158 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn 5.000.000đ chi phí xem xét và thẩm định tại chỗ.

[6]. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại cho nguyên đơn toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 2 và khoản 3 Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 288, 317, 318, 319, 323, 463, 466, 500, 501, 502 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 167 và Điều 168 Luật đất đai năm 2013;

- Căn cứ Điều 91, 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N.

2. Buộc ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Đ phải liên đới trả cho Ngân hàng N tiền nợ gốc còn lại là 590.000.000đ, lãi trong hạn là còn lại là 60.328.768đ, lãi quá hạn là 194.971.233đ và tiền lãi chậm trả lãi trong hạn là 15.828.021đ. Tổng cộng cả gốc và lãi là 861.128.022đ (tám trăm sáu mươi mốt triệu một trăm hai mươi tám nghìn không trăm hai mươi hai đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 26/5/2022) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

3. Trong trường hợp ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Đ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án gồm:

- Quyền sử dụng đất tại thửa số 59, 73; tờ bản đồ số 02, địa chỉ xã I, huyện Ia, tỉnh G theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BN 436593 do UBND huyện Ia Grai cấp ngày 28/6/2013.

- Quyền sử dụng đất tại thửa số 41, 46, 50; tờ bản đồ số 54, địa chỉ xã I, huyện Ia, tỉnh G theo giấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BI 7100551 do UBND huyện Ia Grai cấp ngày 07/5/2012, được chỉnh lý sang tên ngày 03/6/2014.

4. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Đ phải hoàn trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 5.000.000đ (năm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Về án phí:

- Ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 37.833.841đ (ba mươi bảy triệu tám trăm ba mươi ba nghìn tám trăm bốn mươi mốt đồng) án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

- Trả lại cho Ngân hàng N số tiền đã tạm nộp là 17.602.955đ (mười bảy triệu sáu trăm lẻ hai nghìn chín trăm năm mươi lăm đồng) theo biên lai thu số 0008310 ngày 25/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự , người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 42/2022/DS-ST

Số hiệu:42/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về