Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 28/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 28/2022/DS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện LG tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2022/TLST- DS ngày 07 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2022/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 27/QĐST-DS ngày 07 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: VIB Địa chỉ: Tầng 1 và Tầng 2, Tòa nhà Sailing Tower -111A Pasteur, phường N, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc V- Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Thành C- Giám đốc thu hồi nợ trực tiếp và xử lý nợ- Trung tâm QLN NHBL.

Địa chỉ: Tầng M, Tòa nhà HH, số 25 , quận K, thành phố Hà Nội.

Người được ủy quyền lại: Ông Nguyễn Hà D - cán bộ Ngân hàng VIB (có mặt)

Địa chỉ: Tầng M, Tòa nhà HH, số 25 , quận K, thành phố Hà Nội.

-Bị đơn:

Anh Nguyễn Thế Đ, sinh năm 1985 (vắng mặt)

Chị Đinh Thị H, sinh năm 1986 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn QT, xã XL, huyện LG, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện và các bản tự khai, biên bản lấy lời khai tiếp theo và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn VIB do ông Nguyễn Hà Dũng đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 23/12/2017 Ngân hàng VIBBa Đình ký với anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H hợp đồng tín dụng số 006CN562 với nội dung: Số tiền giải ngân là 244.000.000 đồng mục đích giải ngân thanh toán mua xe ô tô Kia Morning, thời hạn vay 72 tháng từ ngày 26/12/2017 đến ngày 25/12/2023, lãi suất tại thời điểm giải ngân 7,99%/ năm. Mức lãi suất quy đổi từ cơ sở một năm có 360 ngày sang cơ sở một năm có 365 ngày là 8,1%. Hết thời hạn ưu đãi nói trên lãi suất sẽ được điều chỉnh lại 12 tháng một lần bằng lãi mức suất cơ sở cộng biên độ 4,19%/ năm. Nếu pháp luật có quy định, mức lãi suất quy đổi cơ sở một năm có 360 ngày sang cơ sở một năm có 365 ngày sẽ được xác định theo công thức lãi suất quy đổi bằng mức lãi suất cho vay với một năm có 360 ngày chia 360 nhân 365; Hoàn trả khoản vay gốc vào ngày 30 hàng tháng. Số tiền gốc trả hàng tháng là 3.388.389VNĐ. Số còn lại trả vào cuối kỳ. Hoàn trả lãi vào ngày 30 hàng tháng theo dư nợ thực tế phát sinh. Ngày trả gốc đầu tiên là ngày 30/01/2018; trả phí theo quy định của VIB từng thời kỳ; lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. VIB đã giải ngân cho anh Đ, chị H theo Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 006CN555.KUNN.2017 ngày 25/7/2017 với số tiền 244.000.000 đồng theo đúng yêu cầu của khách hàng là phù hợp với Hợp đồng tín dụng.

Ngày 25/10/2019 anh Đ, chị H đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế tại VIB- Ba Đình, hạn mức là 24.000.000 đồng, mục đích sử dụng tiêu dùng. Căn cứ vào đơn của anh Đ, Ngân hàng VIB- Ba Đình đã phát hành cho anh Đ sử dụng thẻ tín dụng VIB với hạn mức phê duyệt là 24.000.000 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng anh Đ, chị H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi phát sinh. Tính đến ngày 30/6/2022 anh Đ, chị H còn nợ Ngân hàng VIB tổng số tiền gốc và lãi là 194.925.064 đồng trong đó gồm:

Dư nợ theo hợp đồng tín dụng số 006CN562. HĐTD.2017 ngày 23/12/2017 là 127.789.936 đồng, nợ gốc là 108.444.440 đồng, nợ lãi trong hạn 5.752.165 đồng, nợ lãi quá hạn là 16.668.294 đồng; Dư nợ theo Đơn đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 25/10/2019 là 64.060.165 đồng, nợ gốc là 21.870.670 đồng, nợ lãi là 8.715.054 đồng và phí là 33.474.441 đồng. Đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi, lãi quá hạn kể từ ngày 01/7/2022 cho đến khi anh Đ, chị H thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo quy định của Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ đã ký.

Tại phiên tòa anh Nguyễn Hà Dũng đại diện cho Ngân hàng VIBvẫn giữ nguyên yêu cầu trên.

*Bị đơn anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H đang có nghĩa vụ trả gốc và hàng tháng phải trả lãi Ngân hàng, nhưng anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H không đến Tòa án làm việc, từ chối khai báo. Tòa án đã niêm yết thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải, Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ nhiều lần tại nơi cư trú của anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H theo quy định của pháp luật, nhưng anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H không đến Tòa án để viết bản tự khai, hòa giải và cung cấp chứng cứ. Anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H cố tình trốn tránh nghĩa vụ với Ngân hàng.

Tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H vắng mặt lần hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện LG tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký Tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa HĐXX sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Phía bị đơn không chấp hành các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 16 Điều 4, Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình các Điều 147, 227, 228, 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm,thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VIB.

Buộc anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H phải có nghĩa vụ liên đới trả cho VIB tổng số tiền gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng số 006CN562. HĐTD.2017 ngày 23/12/2017, và Đơn đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 25/10/2019 là 194.925.000 đồng.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất giải quyết về nghĩa vụ chậm trả tiền, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Ngày 07/3/2022, Tòa án nhân dân huyện LG thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện yêu cầu tranh chấp hợp tín dụng giữa Ngân hàng VIBvới bị đơn anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H là đúng quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H đang có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng nhưng trốn tránh nghĩa vụ từ chối khai báo không chấp hành quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần hai không có lý do. Nên HĐXX căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.

Về quan hệ tranh chấp: Ngày 23/12/2017 Ngân hàng VIBBa Đình ký với anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H hợp đồng tín dụng số 006CN562 với nội dung cho vay số tiền là 244.000.000 đồng, mục đích mua xe ô tô kia morning. Ngày 25/10/2019 anh Đ, chị H đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế tại VIB- Ba Đình, hạn mức là 24.000.000 đồng, mục đích sử dụng tiêu dùng. Phía gia đình anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H không có đăng ký kinh doanh. Quá trình thực hiện hợp đồng, phía anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết trong Hợp đồng tín dụng. Tháng 3/2022 Ngân hàng đã khởi kiện đến Tòa án. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp liên quan đến số tiền trên là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, có kỳ hạn, có lãi suất quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 16 Điều 4, Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng.

[2] Về nội dung: Ngày 23/12/2017 Ngân hàng VIBBa Đình ký với anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H Hợp đồng tín dụng số 006CN562 với nội dung số tiền giải ngân là 244.000.000 đồng mục đích giải ngân thanh toán mua xe ô tô Kia Morning, thời hạn vay 72 tháng từ ngày 26/12/2017 đến ngày 25/12/2023, lãi suất tại thời điểm giải ngân 7,99%/ năm. VIB đã giải ngân cho anh Đ, chị H theo Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 006CN555.KUNN.2017 ngày 25/7/2017 với số tiền 244.000.000 đồng theo đúng yêu cầu của khách hàng là phù hợp với Hợp đồng tín dụng.

Ngày 25/10/2019 anh Đ, chị H đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế tại VIB- Ba Đình, hạn mức là 24.000.000 đồng, mục đích sử dụng tiêu dùng. Căn cứ vào đơn của ông Đ Ngân hàng VIB- Ba Đình đã phát hành cho anh Đ sử dụng thẻ tín dụng VIB với hạn mức phê duyệt là 24.000.000 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng anh Đ, chị H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi phát sinh. Đến ngày 01/9/2021 anh Đ, chị H đã thanh toán cho ngân hàng VIB số tiền là 202.356.154 đồng (trong đó gốc là 135.555.560 đồng, lãi là 66.800.594 đồng). Tính đến ngày 30/6/2022 anh Đ, chị H còn nợ Ngân hàng VIB số tiền tổng số tiền gốc và lãi là 194.925.064 đồng trong đó gồm: Dư nợ theo hợp đồng tín dụng số 006CN562. HĐTD.2017 ngày 23/12/2017 là 127.789.936 đồng, nợ gốc là 108.444.440 đồng, nợ lãi trong hạn 5.752.165 đồng, nợ lãi quá hạn là 16.668.294 đồng; Dư nợ theo Đơn đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 25/10/2019 là 64.060.165 đồng, nợ gốc là 21.870.670 đồng, nợ lãi là 8.715.054 đồng và phí là 33.474.441 đồng. Do vậy Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB), khởi kiện yêu cầu anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H cùng có trách nhiệm phải trả số tiền gốc còn nợ Ngân hàng tổng số tiền gốc, lãi và lãi phạt chậm trả tổng cộng là 194.925.064 đồng. HĐXX xét thấy anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H vay số tiền này trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng nên yêu cầu trên của Ngân hàng TMCP Quốc tế VIB buộc anh anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H cùng có trách nhiệm liên đới phải trả số tiền gốc còn nợ Ngân hàng trên, là phù hợp với quy định tại khoản 16 Điều 4, Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 27, Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

Về yêu cầu tính tiền lãi trong hạn, lãi phạt quá hạn, phí của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB), HĐXX xét thấy: Theo hợp đồng tín dụng số 006CN562. HĐTD.2017 ngày 23/12/2017 và Đơn đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 25/10/2019 điều khoản và điều kiện vay tiêu dùng cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ và dịch vụ Ngân hàng, phía anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán như thỏa thuận giữa hai bên đã ký kết quy định tại Mục 1.5 của Hợp đồng tín dụng và điểm g khoản 1.4 Điều 1 quy định về điều khoản và điều kiện cấp tín dụng đính kèm theo hợp đồng tín dụng. Nay phía Ngân hàng yêu cầu tính lãi trong hạn, và lãi quá hạn do vi phạm nghĩa vụ yêu cầu này của Ngân hàng phù hợp với luật các tổ chức tín dụng và các văn bản quy phạm pháp luật, quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật các tổ chức tín dụng. Như vậy, yêu cầu về lãi suất, và số tiền trả lãi quá hạn của Ngân hàng dựa trên thỏa thuận tự nguyện của anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H khi tham gia ký kết trong Hợp đồng tín dụng số 006CN562. HĐTD.2017 ngày 23/12/2017 và Đơn đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 25/10/2019 của anh Đ, chị H với phía Ngân hàng VIB là phù hợp với quy định của pháp luật và quy định tại Điều 7 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì lãi và cách tính lãi được áp dụng trên cơ sở thỏa thuận của hai bên trong Hợp đồng tín dụng nên được chấp nhận.

[3] Về lãi suất phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Do bị đơn anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H vắng mặt tại phiên tòa nên không thỏa thuận được lãi suất chậm thi hành án, lãi suất chậm trả thực hiện theo mức đã giao kết trong Hợp đồng tín dụng số 006CN562 ký ngày 23/12/2017 và Đơn đăng ký phát hành thẻ tín dụng quốc tế tại VIB- Ba Đình ngày 25/10/2019 của Ngân hàng Quốc tế Việt Nam (VIB) đối với anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H tương ứng với thời gian và số tiền còn phải thi hành.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận nên cần buộc anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H phải chịu 9.746.200 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm theo Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Ngân hàng VIBkhông phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả Ngân hàng VIB3.560.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0012713 ngày 07/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LG.

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 271, Điều 272, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2, khoản 4 Điều 91; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 272; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 16 Điều 4, Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 27, Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng VIByêu cầu thanh toán tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng số 006CN562. HĐTD.2017 ngày 23/12/2017 và Đơn đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 25/10/2019 đối với anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H.

Buộc anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng VIBtheo Hợp đồng tín dụng số 006CN562. HĐTD.2017 ngày 23/12/2017 và Đơn đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 25/10/2019 tổng số tiền gốc và lãi là 194.925.000 (một trăm chín mươi tư triệu, chín trăm hai mươi lăm nghìn ) đồng.

2. Buộc anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H tiếp tục trả tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán, kể từ ngày 01/7/2022 theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 006CN562. HĐTD.2017 ngày 23/12/2017 và Đơn đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 25/10/2019 cho đến khi anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H thanh toán hết các khoản nợ cho Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB).

3. Về án phí: Buộc anh Nguyễn Thế Đ và chị Đinh Thị H phải chịu 9.746.200 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng VIBkhông phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả Ngân hàng VIBsố tiền 3.560.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0012713 ngày 07/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LG.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống Đ hoặc niêm yết bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 28/2022/DS-ST

Số hiệu:28/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về