TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 27/2022/KDTM-ST VGÀY 16/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 16 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại sơ thẩm thụ lý số 229/2021/TLST - KDTM ngày 26 tháng 10 năm 2021 về việc Tranh chấp hợp đồng tín dụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST – KDTM ngày 12 tháng 01 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐ - TA ngày 26/01/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng Dầu Petrolimex (PGBank) Trụ sở: Tầng 16, 23, 24 Tòa nhà Mipec, số 229 Tây Sơn, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, tp. Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang Đ – Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nghiêm Đức T – Phó giám đốc phụ trách Chi nhánh Thăng long (Theo Quyết định ủy quyền số 75/2020/UQ- CTHĐQT ngày 17/3/2020).
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Trịnh Văn Hà – Cán bộ xử lý nợ.
Bị đơn : Ông Trương Đăng Đ - sinh năm 1981 Bà Ngô Thị S - sinh năm 1985 Cùng trú tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1, Cháu Trương Huyền T - sinh năm 2006 2, Cháu Trương Thị Tr - sinh năm 2007 3, Cháu Trương Hoài N - sinh năm 2011 Ông Đ bà S là đại diện theo pháp luật của cháu T, cháu Tr, cháu N. Cùng trú tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Có mặt: Đại diện theo ủy quyền của PGbank,. Vắng mặt: Ông Đ, bà S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng Dầu Petrolimex (sau đây viết tắt là PG Bank) trình bày:
Ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S vay vốn tại PG Bank theo 04 Hợp đồng tín dụng từ năm 2016 đến năm 2018. Tuy nhiện 03 hợp đồng tín dụng từ năm 2016 đến 2017 thì vợ chồng ông Đ đã tất toán khoản vay. Còn lại Hợp đồng tín dụng số 760.0406/2018/HĐTD – CN/PGBank ngày 01/12/2018 với tổng số tiền vay gốc là 497.000.000 đồng, mục đích vay: bổ sung vốn lưu động, thời hạn vay: 12 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên; Lãi suất trong hạn: 10,6%/năm; Lịch trả nợ: Trả nợ gốc cuối kỳ và lãi được trả định kỳ vào ngày 15 hàng tháng;
Để đảm bảo cho khoản vay, ông Đ bà S đã ký Hợp đồng thế chấp bổ sung lần thứ tư, đối với tài sản thuộc sử hữu của mình là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của Thửa đất số 63-1, tờ bản đồ số 40, có địa chỉ tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 705380 số vào sổ cấp GCNQSD đất: 3050/QĐUBND.2015/CH00003.2015 do Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội cấp ngày 09/10/2015 cho Hộ gia đình ông Trương Đăng Đ.
PG Bank đã tiến hành giải ngân số tiền là 497.000.000 đồng cho vợ chồng ông Đ bà S theo các khế ước nhận nợ đã ký giữa các bên. Qúa trình thực hiện hợp đồng tín dụng, ông Đ bà S đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, vì vậy khoản nợ đã chuyển sang nợ quá hạn. Tạm tính đến ngày 28/06/2021, vợ chồng ông Đ bà S còn nợ PG Bank số tiền là: 537.043.302 đồng. Trong đó nợ gốc: 421.100.000 đồng, nợ lãi phát sinh: 115.943.302 đồng.
Tại phiên tòa PG Bank yêu cầu ông Đ bà S phải thanh toán số tiền tạm tính đến hết ngày 16/02/2022 là 578.726.391 đồng. Trong đó nợ gốc: 421.100.000 đồng, nợ lãi trong hạn: 7.348.111 đồng, nợ lãi quá hạn là 150.278.280 đồng.
Kể từ ngày 17/02/2022 ông Đ, bà S còn phải trả khoản tiền lãi phát sinh trên dư nợ gốc thực tế chưa trả theo thỏa thuận của hợp đồng tín dụng nêu trên cho đến khi ông Đ bà S thanh toán hết các khoản nợ.
Trường hợp ông Đ, bà S không thực hiện đúng cam kết trả nợ theo biên bản hòa giải tại Tòa án và vi phạm bất kỳ kỳ trả nợ nào thì PG Bank có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên phát mại tài sản thế chấp cho khoản vay là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của thửa đất số 63-1, tờ bản đồ số 40, có địa chỉ tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 705380 số vào sổ cấp GCNQSD đất:
3050/QĐUBND.2015/CH00003.2015 do Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội cấp ngày 09/10/2015 cho Hộ gia đình ông Trương Đăng Đ.
Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của ông Đ, bà S đối với PG Bank. Nếu số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì ông Đ, bà S vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ.
* Quan điểm của bị đơn là: ông Trương Đăng Đ trình bày:
Tôi công nhận vợ chồng tôi đã ký hợp đồng vay vốn tại Ngân hàng Xăng dầu bằng các Hợp đồng tín dụng, tổng số tiền nợ gốc là 497.000.000 đồng và lãi suất theo Hợp đồng tín dụng đã ký giữa các bên. Chúng tôi đã nhận đủ số tiền gốc theo các khế ước nhận nợ.
Để đảm bảo cho các khoản vay nêu trên thì vợ chồng tôi đã thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 63-1, tờ bản đồ số 40, có địa chỉ tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 705380 số vào sổ cấp GCNQSD đất:
3050/QĐUBND.2015/CH00003.2015 do Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội cấp ngày 09/10/2015 cho hộ gia đình ông Trương Đăng Đ.
Qúa trình thực hiện hợp đồng, do tình hình dịch bệnh khó khăn, gia đình tôi làm nghề gỗ xảy ra vỡ nợ gặp khó khăn về kinh tế, vì vậy đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ và mới chỉ thanh toán được cho PG Bank khoảng hơn 70.000.000 đồng nợ gốc và một phần nợ lãi.
Nay PG Bank khởi kiện, chúng tôi công nhận còn nợ PG Bank toàn bộ số tiền tạm tính đến hết ngày 28/06/2021 là 537.043.302 đồng. Trong đó nợ gốc 421.000.000 đồng, nợ lãi phát sinh 115.943.302 đồng và nhất trí thanh toán cho ngân hàng số nợ lãi trên dư nợ gốc tính từ ngày 29/06/2021 đến ngày thực tế thanh toán hết số nợ cho PG Bank.
Trường hợp vợ chồng tôi vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị Tòa án xem xét đến chỗ ở của gia đình tôi vì chúng tôi không còn chỗ ở nào khác.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự của người tham gia tố tụng, của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của PGbank.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà; Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex sau đây viết tắt là PGbank), có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 1400116233 do Sở Kế hoạch Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/11/1993, cấp đổi lần thứ 19 ngày 24/10/2019. Địa chỉ trụ sở: Tầng 16, 23, 24 Tòa nhà Mipec, số 229 Tây Sơn, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang Định – Tổng giám đốc.
Bị đơn là: ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S cùng trú tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội.
Như vậy, các bên đều đủ tư cách và có quyền ký kết, thực hiện các hợp đồng tín dụng và tham gia tố tụng để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng đã ký kết. Tòa án nhân dân huyện Đông Anh thụ lý và giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” là có căn cứ và phù hợp quy định tại Điều 26, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự:
Tòa án nhân dân huyện Đông Anh đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho các đương sự, nhưng ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do.
Do vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người có tên nêu trên là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn:
Tại các bản giải trình, PGbank nộp tại phiên tòa cũng như phần trình bày của người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn thể hiện: Tính đến ngày 16/02/2022 là 578.726.391 đồng. Trong đó nợ gốc: 421.100.000 đồng, nợ lãi trong hạn: 7.348.111 đồng, nợ lãi quá hạn là 150.278.280 đồng.
Xét thấy đây là hợp đồng tín dụng có thỏa thuận lãi trong hạn, lãi quá hạn. Hợp đồng kết thúc khi bên vay thực hiện xong toàn bộ các nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và nợ lãi theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự. Đến nay ông Được và bà Sửu vẫn chưa trả hết nợ gốc và nợ lãi cho PGbank. Theo bản giải trình về cách thức tính lãi trong hạn, lãi quá hạn và điều chỉnh mức lãi trong hạn của hợp đồng tín dụng nêu trên của PGbank tại phiên tòa là phù hợp theo cách tính lãi suất nợ quá hạn được quy định tại các Điều 51, 52, 53, 54, 60 Luật các tổ chức tín dụng và phù hợp với Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Do vậy yêu cầu của PGbank được chấp nhận, nên buộc ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S phải trả cho PGbank tổng số tiền tính đến hết ngày 16/02/2022 là 578.726.391 đồng. Trong đó nợ gốc: 421.100.000 đồng, nợ lãi trong hạn:
7.348.111 đồng, nợ lãi quá hạn là 150.278.280 đồng.
Kể từ ngày 17/02/2022 ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S còn phải trả cho PGbank khoản tiền lãi phát sinh trên dư nợ gốc thực tế chưa trả theo thỏa thuận của hợp đồng tín dụng nêu trên cho đến khi thanh toán hết các khoản nợ.
[4] Xét hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất:
Ngày 01/12/2018, ông Trương Đăng Đ, bà Ngô Thị S và PGbank đã cùng nhau ký kết hợp đồng thế chấpbổ sung lần thứ 4 tại Văn phòng Công chứng Hùng vương, có địa chỉ tại: 560 đường Nguyễn Văn Cừ, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội có số công chứng là: 003152/2018/HĐSDDS. Quyển số 06TP/CC – SCC/HĐGD. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 63-1, tờ bản đồ số 40, có địa chỉ tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 705380 số vào sổ cấp GCNQSD đất:
3050/QĐUBND.2015/CH00003.2015 do Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội cấp ngày 09/10/2015 cho hộ gia đình ông Trương Đăng Đ.
Hợp đồng thế chấp bổ sung này đã được, ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S đăng ký tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 02/12/2015 tại Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố Hà Nội – Chi nhánh huyện Đông Anh.
Việc ký kết hợp đồng thế chấp đã được ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S ký tên trước mặt công chứng viên, như vậy việc ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo cho các khoản vay của vợ chồng tại PGbank là hoàn toàn tự nguyện; Trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng thế chấp tuân thủ các quy định của pháp luật về Công chứng, tài sản thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định tại Điều 298 Bộ luật dân sự, do vậy hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực pháp luật thi hành đối với các bên tham gia ký kết, nên yêu cầu của PGbank về việc được quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp khi ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S không trả hoặc trả không đầy đủ các khoản còn nợ theo hợp đồng tín dụng số 760.0406/2018/HĐTD – CN/PGBank ngày 01/12/2018 là có căn cứ nên được chấp nhận.
Theo quy định tại Điều 299; Điều 301 và Điều 322 và 323 Bộ luật dân sự thì kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S không trả đủ các khoản nợ nêu trên thì PGbank có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 63-1, tờ bản đồ số 40, có địa chỉ tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 705380 số vào sổ cấp GCNQSD đất: 3050/QĐUBND.2015/CH00003.2015 do Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội cấp ngày 09/10/2015 cho hộ gia đình ông Trương Đăng Đ để thu hồi nợ.
Toàn bộ số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S đối với PGbank. Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ thanh toán hết khoản nợ thì ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S vẫn phải có nghĩa vụ tiếp tục trả hết khoản nợ cho PGbank.
[4] Về án phí sơ thẩm:
- Ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S liên đới phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí, Lệ phí Tòa án là: 20.000.000 đồng + 4% (578.726.391 đồng - 400.000.000 đồng) = 27.149.000 (hai mươi bảy triệu, một trăm bốn mươi chín nghìn) đồng.
- Trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex số tiền tạm ứng án phí 12.740.000 (mười hai triệu, bảy trăm bốn mươi nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2020/0045652 ngày 26/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 299; Điều 301; Điều 322; Điều 323; Điều 468 Bộ luật dân sự.
- Điều 51, 52, 53, 54, 60 Luật Các tổ chức tín dụng.
- Khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 144; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273; Điều 278; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí, Lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex đối với ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S.
2. Xác nhận ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S còn nợ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex tổng số tiền tính đến hết ngày 16/02/2022, theo hợp đồng tín dụng số 760.0406/2018/HĐTD – CN/PGBank ngày 01/12/2018 là 578.726.391 đồng. Trong đó nợ gốc: 421.100.000 đồng, nợ lãi trong hạn: 7.348.111 đồng, nợ lãi quá hạn là 150.278.280 đồng.
3. Buộc ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex tổng số tiền tính đến hết ngày 12/01/2022 là 578.726.391 (năm trăm bảy mươi támtriệu, bảy trăm hai mươi sáu nghìn, ba trăm chín mươi mốt) đồng.
Kể từ ngày 17/02/2022 cho đến khi trả hết các khoản nợ nêu trên, ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S còn phải chịu tiền lãi phát sinh trên dư nợ gốc chưa trả theo mức lãi suất quá hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 760.0406/2018/HĐTD – CN/PGBank ngày 01/12/2018 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ các khoản nợ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S không trả đủ các khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 63-1, tờ bản đồ số 40, có địa chỉ tại: Khu 6 thôn T, xã T, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 705380 số vào sổ cấp GCNQSD đất: 3050/QĐUBND.2015/CH00003.2015 do Ủy ban nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội cấp ngày 09/10/2015 cho hộ gia đình ông Trương Đăng Đ để thu hồi nợ.
Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả hết các khoản nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex, thì ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S còn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả hết các khoản nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex theo hợp đồng tín dụng đã ký.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
4. Về án phí sơ thẩm:
- Ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S phải chịu 27.149.000 (hai mươi bảy triệu, một trăm bốn mươi chín nghìn) đồng.
- Hoàn trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex số tiền tạm ứng án phí 12.740.000 (mười hai triệu, bảy trăm bốn mươi nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2020/0045652 ngày 26/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội.
5. Về quyền kháng cáo:
- Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Ông Trương Đăng Đ và bà Ngô Thị S có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 27/2022/KDTM-ST
Số hiệu: | 27/2022/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 16/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về