Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 24/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 24/2022/DS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, Tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 199/2021/TLST-DS, ngày 24 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định hoãn phiên tòa số 185/2022/QĐST-DS, ngày 31/5/2022, giữa:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Q. Địa chỉ trụ sở: Tầng 1 và tầng 2, Tòa nhà S, Paster, P. B, quận Y, Tp. HCM.

Đại diện theo ủy quyền: Anh Lê Thanh Nguyễn L – Cán bộ ngân hàng. Địa chỉ: Tầng 6, tòa nhà P, số 26, U, P. 25, Q. B, Tp. HCM.

- Bị đơn: Anh Trần Văn Nh, sinh năm 1974 và chị Đặng Thị Hoàng O, sinh năm 1972. Cùng trú tại: Khu 2, T, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

(Anh Lâm có mặt; anh Nh và chị O vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn_anh Lê Thanh Nguyễn L trình bày: Ngân hàng TMCP Q (VIB) (sau đây gọi tắt là ngân hàng) có ký với anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O Hợp đồng tín dụng số 9795065.20 ngày 21/08/2020. Theo đó, Ngân hàng cho anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O vay số tiền 700.000.000 đồng, mục đích vay vốn để mua xe ô tô, thời hạn vay: 84 tháng, lãi suất thỏa thuận tại thời điểm giải ngân là 9,4%/ năm, được áp dụng trong 12 tháng đầu tiên, hết thời hạn này lãi suất được điều chỉnh 3 tháng 01 lần bằng lãi suất cơ sở theo sản phẩm cộng biên độ 4,1%/ năm, gốc và lãi trả hàng tháng. Tài sản đảm bảo là 01 xe ô tô nhãn hiệu: HYUNDAI TUCSON, biển kiểm soát: 60A-830.52, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 164669 do Phòng cảnh sát giao thông Công an Tỉnh Đồng Nai Cấp ngày 20/08/2020 theo quy định của HĐTC số 5475885.20 ngày 21/08/2020.

Ngân hàng đã giải ngân cho anh Nh, chị O số tiền 700.000.000 đồng theo Khế ước nhận nợ số 9795065(1).20 ngày 21/08/2020.

Quá trình thực hiện hợp đồng, anh Nh, chị O vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng đã ký, cụ thể: anh Nh và chị O đã trả được 122.365.571 đồng (trong đó có 75.006.000 đồng tiền nợ gốc và 47.359.571 đồng tiền nợ lãi). Sau đó anh chị không thực hiện việc trả nợ gốc, lãi đúng cam kết. Do đó, khoản nợ của anh, chị chuyển sang nợ quá hạn từ ngày 10/03/2021.

Nay, Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi vay tạm tính đến hết ngày 21/6/2022 với số tiền là 733.357.774 đồng. Trong đó, tiền nợ gốc là 624.994.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 8.563.670 đồng, nợ lãi quá hạn là 99.800.104 đồng.

Ngoài ra, anh Nh và chị O phải tiếp tục trả lãi, lãi quá hạn quy định tại Hợp đồng tín dụng số 9795065.20 ngày 21/08/2020 trên số tiền chưa thanh toán kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi anh chị thanh toán xong khoản tiền này.

Trong quá trình chuẩn bị xét xử bị đơn Đặng Thị Hoàng O trình bày: Chị O thừa nhận vợ chồng anh chị Trần Văn Nh, Đặng Thị Hoàng O có ký hợp đồng tín dụng số 9795065.20 ngày 21/08/2020 với Ngân hàng TMCP Q để vay số tiền 700.000.000 đồng, mục đích mua xe ô tô, thời hạn vay 84 tháng, thỏa thuận gốc, lãi trả hàng tháng. Sau khi vay, anh chị có trả nợ được một thời gian nhưng đến đợt dịch Covid 19, do kinh doanh gặp nhiều khó khăn nên vợ chồng anh chị không có khả năng trả nợ cho ngân hàng như thỏa thuận trong hợp đồng. Việc ngân hàng yêu cầu vợ chồng anh chị trả nợ gốc với số tiền 624.994.000 đồng và tiền lãi, lãi quá hạn phát sinh theo quy định tại hợp đồng tín dụng số 5475885.20 ngày 21/08/2020 chị đồng ý.

Bị đơn Trần Văn Nh vắng mặt nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định. Về quan điểm giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc anh Nh và chị O phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền như đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày. Buộc bị đơn phải đóng án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy: Ngân hàng TMCP Q có ký với anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O Hợp đồng tín dụng số 9795065.20 ngày 21/08/2020, theo đó, Ngân hàng cho anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O vay số tiền 700.000.000 đồng; Mục đích vay vốn để mua xe ô tô, thời hạn vay 84 tháng, lãi suất thỏa thuận tại thời điểm giải ngân là 9,4%/ năm, được áp dụng trong 12 tháng đầu tiên, hết thời hạn này lãi suất được điều chỉnh 3 tháng 01 lần bằng lãi suất cơ sở theo sản phẩm cộng biên độ 4,1%/ năm, thỏa thuận gốc và lãi trả hàng tháng. Khi vay, anh chị có thế chấp tài sản là xe ô tô nhãn hiệu: HYUNDAI, số loại: TUCSON, biển kiểm soát: 60A-830.52, giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 164669 do Phòng cảnh sát giao thông Công an Tỉnh Đồng Nai Cấp ngày 20/08/2020. Quá trình thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân cho anh Nh và chị O số tiền trên, tuy nhiên anh Nh và chị O chỉ đóng tiền gốc và lãi đến ngày 10/3/2021 thì không đóng như thỏa thuận trong hợp đồng đã ký. Trong quá trình giải quyết vụ án, tuy anh Nh không đến Tòa án làm việc nhưng chị O là vợ anh Nh đã đến Tòa làm việc và thừa nhận việc vợ chồng anh chị có ký hợp đồng tín dụng, vay tiền của Ngân hàng và thế chấp tài sản như Ngân hàng khởi kiện và anh chị chỉ trả được cho Ngân hàng tiền gốc và lãi một thời gian, sau đó anh chị không còn trả tiền cho Ngân hàng như thỏa thuận nữa. Như vậy, việc anh Nh, chị O không trả gốc, lãi cho Ngân hàng như thỏa thuận là đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, do đó việc Ngân hàng khởi kiện là có căn cứ, nên cần buộc anh Nh, chị O phải trả cho Ngân hàng số tiền còn thiếu là 733.357.774 đồng. Trong đó, tiền nợ gốc là 624.994.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 8.563.670 đồng, nợ lãi quá hạn là 99.800.104 đồng.

Ngoài ra, anh Nh, chị O còn phải trả lãi theo mức lãi quá hạn trên số nợ gốc chưa thanh toán quy định tại Hợp đồng tín dụng số 9795065.20 ngày 21/08/2020 kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O thanh toán xong khoản tiền này.

[3] Tài sản đảm bảo cho khoản vay trên là chiếc xe ô tô nhãn hiệu: HYUNDAI TUCSON, biển kiểm soát: 60A-830.52, giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 164669 do Phòng cảnh sát giao thông Công an Tỉnh Đồng Nai Cấp ngày 20/08/2020, nhưng nguyên đơn không yêu cầu giải quyết về tài sản đảm bảo nên HĐXX không xem xét.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải nộp án phí. Anh Nh, chị O phải nộp 33.334.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 161, Điều 227, Điều 228; Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 463, 466, 468, 469 Bộ luật Dân sự 2015;

Căn cứ Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất phạt vi phạm;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Q đối với anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Buộc anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP Q số tiền 733.357.774 đồng (bảy trăm ba mươi ba triệu ba trăm năm mươi bảy nghìn bảy trăm bảy mươi bốn đồng). Trong đó, tiền nợ gốc là 624.994.000 đồng (sáu trăm hai mươi bốn triệu chín trăm chín mươi bốn nghìn đồng), nợ lãi trong hạn là 8.563.670 đồng (tám triệu năm trăm sáu mươi ba nghìn sáu trăm bảy mươi đồng), nợ lãi quá hạn là 99.800.104 đồng (chín mươi chín triệu tám trăm nghìn một trăm lẻ bốn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong số tiền nêu trên, anh Nh, chị O còn phải trả lãi trên số nợ chưa thanh toán theo lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng số 9795065.20 ngày 21/08/2020.

2. Về án phí:

- Anh Trần Văn Nh và chị Đặng Thị Hoàng O phải nộp 33.334.000 đồng (ba mươi ba triệu ba trăm ba mươi bốn nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Ngân hàng TMCP Q không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 14.623.000 đồng (mười bốn triệu sáu trăm hai mươi ba nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000522 ngày 24/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom.

3. Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, người có mặt tính từ ngày tuyên án, người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

97
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 24/2022/DS-ST

Số hiệu:24/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về