Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 20/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 20/2020/DS-ST NGÀY 26/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 34/2020/TLST- DS ngày 17 tháng 02 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2020/QĐST-DS ngày 29 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP SGTT; Trụ sở: L8, 266 – 268 NKKN, phường X, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh;

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D – Chức vụ: Tổng giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc H – Trưởng phòng giao dịch (Theo văn bản ủy quyền số 588/2019/UQ-CNSH ngày 30/12/2019). Có mặt.

* Bị đơn: Ông Phan Thu A, sinh năm 1970; Trú tại: 25/06 đường T, phường P, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 25 tháng 12 năm 2019 và tại phiê tòa nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - Ngân hàng TMCP SGTT trình bày: Ngày 29/3/2018, ông Phan Thu A có ký với Ngân hàng TMCP SGTT Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (Bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Căn cứ vào thu nhập của ông A, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ với hạn mức là 20.000.000đ, mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp hạn mức tín dụng, ông A đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 43.450.000đ. Quá trình sử dụng thẻ từ ngày kích hoạt đến nay ông A đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 25.751.000đ, thanh toán lần sau cùng là vào ngày 30/9/2018.

Qua nhiều lần nhắc nhở ông A vẫn không có thiện chí trả nợ, ngày 01/02/2019 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 17/12/2019 ông A còn nợ Ngân hàng tổng cộng 32.976.003đ. Trong đó nợ gốc 23.554.243đ, nợ lãi quá hạn 9.421.760đ.

Tính đến ngày xét xử hôm nay, ông A còn nợ Ngân hàng số tiền 38.629.059đ, trong đó nợ gốc là 23.554.243đ, nợ lãi là 15.074.816đ và vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Điều 2 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Nên đề nghị Tòa án buộc ông A phải thanh toán cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ nói trên đồng thời tiếp tục tính lãi theo Hợp đồng cho đến khi ông A thanh toán xong khoản nợ.

* Quá trình thụ lý, Tòa án gửi thông báo về việc thụ lý vụ án cho Phan Thu A về địa chỉ theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã giao kết với Ngân hàng là 25/06 đường T, phường P, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, tuy nhiên ông A hiện không còn trú tại địa chỉ này. Qua xác minh thể hiện ông A đã bán nhà đi khỏi địa phương, ngoài địa chỉ này ông A không còn đăng ký địa chỉ nào khác. Tòa án cũng đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng tại nơi cư trú nhưng bị đơn Phan Thu A không có bất kỳ văn bản phản hồi nào và cũng không có mặt tại các phiên họp, hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay. Do đó ông A không có lời khai trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm về vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã thụ lý vụ án đúng về thẩm quyền, trong vụ án này, do bị đơn tự ý thay đổi địa chỉ cư trú, không thông báo cho nguyên đơn biết, hiện không biết bị đơn đang ở đâu do đó không tống đạt trực tiếp được các văn bản tố tụng cho bị đơn. Tuy nhiên, Tòa án cũng đã niêm yết công khai văn bản tố tụng theo đúng quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự, việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án là hợp lệ, đảm bảo để các bên đương sự được thực hiện các quyền của mình. Bị đơn Phan Thu A đã được thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng không đến Tòa án, không có ý kiến phản hồi. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, do đó căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án là đúng quy định.

Về nội dung: Giữa nguyên đơn Ngân hàng Ngân hàng TMCP SGTT và bị đơn Phan Thu A đã giao kết Hợp đồng tín dụng trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng. Cùng với yêu cầu khởi kiện, nguyên đơn đã cung cấp chứng cứ chứng minh việc ông Phan Thu A còn nợ Ngân hàng số tiền tính đến ngày xét xử là 38.629.059đ và hiện nay đã đi khỏi nơi cư trú, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, vi phạm hợp đồng tín dụng đã giao kết nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn Phan Thu A phải trả cho nguyên đơn số tiền 38.629.059đ nói trên đồng thời tiếp tục tính lãi suất đối với yêu cầu của nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa và những tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Đây là vụ án tranh chấp phát sinh từ việc cấp hạn mức tín dụng thông qua hình thức thẻ tín dụng Ngân hàng giữa Ngân hàng TMCP SGTT và ông Phan Thu A, căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng tín dụng thể hiện địa chỉ của bị đơn Phan Thu A là tại 25/06 đường T, phường P, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng nên Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thụ lý giải quyết vụ án là đúng về thẩm quyền.

[1.2] Sau khi thụ lý, Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án về đúng địa chỉ của bị đơn tại 25/06 đường T, phường P, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng nhưng không có người nhận, qua xác minh thể hiện ông A không còn thường trú tại địa chỉ nói trên và không còn địa chỉ nào khác. Do đó Tòa án đã niêm yết công khai các văn bản tố tụng, theo đúng quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự như bị đơn Phan Thu A không có bất kỳ văn bản phản hồi nào và cũng không có mặt tại các phiên họp, hòa giải. Tại phiên tòa hôm nay, ông A vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Căn cứ chứng cứ vụ án thể hiện vào ngày 29/3/2018 trên cơ sở Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng, Ngân hàng TMCP SGTT cấp cho ông Phan Thu A thẻ tín dụng với hạn mức 20.000.000đ. Tại phần cam kết của Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng thể hiện “Bằng việc ký vào mẫu đơn này, tôi/chúng tôi xác nhận rằng tôi/ chúng tôi đã đọc và đồng ý bị ràng buộc bởi Điều khoản và Điều kiện của thẻ tín dụng và cùng với mẫu đơn này tạo nên một Hợp đồng chi phối việc phát hành và sử dụng thẻ tín dụng S có tính ràng buộc về mặt pháp lý giữa tôi/chúng tôi và S. Tôi/chúng tôi chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ và trách nhiệm phát sinh đến việc sử dụng thẻ tín dụng mà tôi/chúng tôi được cấp”. Tại mục 25 của Điều khoản và Điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP SGTT quy định về cách tính lãi như sau: “Đối với giao dịch mua hàng hóa, phí, lệ phí và tất cả những khoản nợ khác trên tài khoản (ngoại trừ giao dịch rút tiền mặt): Nếu chủ thẻ không thanh toán toàn bộ số tiền đến hạn đầy đủ đúng hạn vào hoặc trước ngày đến hạn, chủ thẻ phải thanh toán lãi cho đơn vị phát hành thẻ đối với tất cả các khoản nợ được thể hiện trong thông báo giao dịch hiện tại và đối với bất kỳ khoản nợ nào phát sinh sau đó trong tài khoản cho đến khi toàn bộ các khoản nợ đến hạn ghi trong thông báo giao dịch mới nhất được thanh toán vào hoặc trước ngày đến hạn. Lãi được tính từ ngày giao dịch cho đến hết ngày việc thanh toán được thực hiện đầy đủ; Đối với giao dịch rút tiền mặt và giao dịch tương đương rút tiền mặt: Lãi được tính từ ngày giao dịch cho đến hết ngày chủ thẻ thanh toán lại toàn bộ số tiền đã rút; S có quyền sửa đổi mức lãi suất trong từng thời kỳ theo quyết định của mình mà không cần thông báo cho chủ thẻ.” Vào thời điểm phát hành thẻ cho khách hàng Phan Thu A thì mức lãi suất cũng như phí rút tiền mặt tại Ngân hàng TMCP SGTT được áp dụng theo Thông báo số 710/TB-TTT ngày 31/12/2013 của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP SGTT. Trên cơ sở mức quy định về lãi suất tại Thông báo, căn cứ vào số tiền thực tế giao dịch của ông Phan Thu A, Ngân hàng đã chứng minh được quá trình sử dụng thẻ, tính đến ngày xét xử hôm nay, ông A đã nợ số tiền tổng cộng là 38.629.059đ, trong đó nợ gốc là 23.554.243đ, nợ lãi là 15.074.816đ.

Như vậy, “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” là một dạng Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ông Phan Thu A và Ngân hàng TMCP SGTT, các điều khoản thỏa thuận của Hợp đồng được dẫn chiếu theo quy định về Điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP SGTT, Thông báo số 710/TB-TTT ngày 31/12/2013 của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP SGTT quy định về biểu lãi suất đối với thẻ tín dụng. Việc giao kết hợp đồng nói trên là đúng về chủ thể, nội dung Hợp đồng phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Việc ông Phan Thu A tham gia sử dụng thẻ nhưng không tuân thủ quy định về nghĩa vụ của chủ thẻ, không trả nợ theo đúng kỳ hạn, vi phạm nghĩa vụ theo Hợp đồng tín dụng. Hiện nay ông A đã thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng đã ký kết mà không thông báo cho Ngân hàng biết về nơi cư trú mới, vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu thanh toán các khoản nợ theo đơn khởi kiện và lãi suất tính tới ngày xét xử sơ thẩm với tổng số tiền 38.629.059đ là có căn cứ. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc ông Phan Thu A phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP SGTT số tiền nói trên.

Đối với yêu cầu tiếp tục tính lãi suất, tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đề nghị tiếp tục tính lãi suất theo Hợp đồng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bị đơn phải tiếp tục chịu lãi suất theo Hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

[3] Về án phí, do toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp trong vụ án.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357 Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 3; Khoản 2 Điều 91; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP SGTT đối với ông Phan Thu A

Xử:

1. Buộc ông Phan Thu A phải trả cho Ngân hàng TMCP SGTT số tiền nợ tổng cộng là 38.629.059đ (Ba mươi tám triệu sáu trăm hai mươi chín ngàn không trăm năm mươi chín đồng), trong đó nợ gốc là 23.554.243đ, nợ lãi là 15.074.816đ.

Lãi suất tiếp tục được tính kể từ ngày 27/6/2020 dựa trên Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng được ký kết giữa ông Phan Thu A và Ngân hàng TMCP SGTT và quy định về Điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP SGTT cho đến khi ông Phan Thu A thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền.

2. Về án phí: Ông Phan Thu A phải chịu 1.931.452đ (Một triệu chín trăm ba mươi mốt ngàn bốn trăm năm mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho và Ngân hàng TMCP SGTT số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 824.000đ theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008781 ngày 06/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, báo cho nguyên đơn có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 20/2020/DS-ST

Số hiệu:20/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về