Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 183/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 183/2022/DS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 161/2021/TLST-DS ngày 16 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1998/2022/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 2548/2022/QĐST-DS ngày 30 tháng 5 năm 2022, giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần A Địa chỉ trụ sở: Số 266-268 đường KN, Phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Thi Quang H, sinh năm 1990, là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 67/2021/GUQ-CNBT ngày 09 tháng 3 năm 2021) (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Bị đơn: Bà Hà Thái U, sinh năm 1982 Địa chỉ: Số 214/C52/8 đường NT, phường CT, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 3 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Thi Quang H đều trình bày:

Ngày 21 tháng 12 năm 2017, bị đơn là bà Hà Thái U có ký với nguyên đơn Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng; Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Nguyên đơn cấp cho bị đơn thẻ tín dụng Thẻ Visa Platinum số thẻ 436438-748X với hạn mức sử dụng là 50.000.000 đồng, loại thẻ Visa Platinum, mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp thẻ, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 1.307.899.500 đồng và đã thanh toán 1.273.721.000 đồng nợ gốc, nợ lãi và phí. Qua nhiều lần nhắc nhở nhưng bị đơn không có thiện chí thanh toán nợ. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bị đơn và chuyển nợ quá hạn của thẻ tín dụng Thẻ Visa Platinum số thẻ 436438-748X từ ngày 15 tháng 02 năm 2021.

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán 88.331.238 đồng còn nợ, gồm: 50.000.000 đồng nợ gốc và 8.173.750 đồng nợ lãi trong hạn và 30.157.488 đồng nợ lãi quá hạn tạm tính đến ngày 21 tháng 6 năm 2022 và tiền lãi phát sinh từ ngày 22 tháng 6 năm 2022 cho đến khi trả hết nợ theo lãi suất thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 21 tháng 12 năm 2017; Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016.

Bị đơn là bà Hà Thái U không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng với bị đơn là bà Hà Thái U có địa chỉ cư trú ghi trong hợp đồng tại số 214/C52/8 đường NT, phường CT, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo kết quả xác minh của Công an phường CT, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 214/C52/8 đường NT, phường CT, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng hiện nay cư trú ở đâu không rõ. Căn cứ điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 05 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, bị đơn thay đổi nơi cư trú nhưng không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật Cư trú nên địa chỉ số 214/C52/8 đường NT, phường CT, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh được xác định là nơi cư trú cuối cùng của bị đơn. Xét thấy, trong đơn khởi kiện, nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của bị đơn theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản nên được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú”; Trường hợp bị đơn thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc. Bị đơn đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến Tòa án tham gia tố tụng nên bị đơn phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 21 tháng 12 năm 2017 và các Tóm tắt sao kê thì nguyên đơn thỏa thuận cấp cho bị đơn thẻ tín dụng Thẻ Visa Platinum số thẻ 436438-748X với hạn mức sử dụng là 50.000.000 đồng đúng như nguyên đơn trình bày. Việc cấp thẻ này được thực hiện theo Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016 và được niêm yết tại trang web của nguyên đơn.

Căn cứ Tóm tắt sao kê và lời trình bày của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án thì trong quá trình sử dụng thẻ tín dụng, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 1.307.899.500 đồng và phát sinh các khoản phí thường niên, phí rút tiền mặt; phí trễ hạn và tiền lãi. Từ ngày kích hoạt thẻ đến ngày 21 tháng 12 năm 2017, bị đơn đã thanh toán nhiều lần tổng cộng số tiền là 1.273.721.000 đồng được trừ vào các khoản phát sinh (phí, tiền lãi) và tiền giao dịch; Trong thời gian này, bị đơn không khiếu nại các thông báo giao dịch, tiền lãi và dư nợ hàng tháng mà vẫn đóng tiền. Theo Điều 23 của Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016, việc không thanh toán ít nhất số tiền tối thiểu của chủ thẻ cho đến kỳ phát hành thông báo tiếp theo sẽ tạo nên sự vi phạm theo hợp đồng, trong trường hợp này, toàn bộ tổng dư nợ sẽ trở nên đến hạn ngay lập tức và chủ thẻ phải thanh toán; Khi sự kiện vi phạm xảy ra, chủ thẻ hiểu và đồng ý rằng đơn vị phát hành thẻ có thể thực hiện một hoặc nhiều hành động sau: Chấm dứt quyền sử dụng thẻ và tiến hành việc thu hồi toàn bộ nợ, áp dụng lãi suất nợ quá hạn (là 150% của lãi suất được công bố áp dụng tại thời điểm hiện tại).... Dư nợ cuối kỳ thẻ tín dụng của bị đơn tính đến ngày 15 tháng 02 năm 2021 là 54.348.360 đồng. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng ngày 21 tháng 12 năm 2017 và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016, yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán nợ gốc bao gồm các giao dịch mua hàng, rút tiền mặt, phí trễ hạn, lãi, phí vượt hạn mức, phí rút tiền, phí thường niên được tính đúng theo thỏa thuận của hai bên.

Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bị đơn, chuyển nợ quá hạn của thẻ tín dụng từ ngày 01 tháng 3 năm 2020 và tiến hành thu hồi nợ vay là đúng theo thỏa thuận của hợp đồng; Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016 và Luật Các tổ chức tín dụng.

Tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 21/12/2017 không quy định mức lãi suất, tuy nhiên tham khảo tại website Sacombank.com.vn, thời điểm bị đơn mở thẻ đến khi quá hạn thì mức lãi suất là 2,4%/tháng; mức lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn là 3,6%/tháng. Xét thấy, theo quy định tại khoản 14 Điều 4 và khoản 2 Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận thì tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức theo quy định của pháp luật. Mức lãi suất của nguyên đơn thỏa thuận với bị đơn phù hợp với các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Từ những nhận định trên, có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán 88.331.238 đồng còn nợ của hợp đồng tín dụng nêu trên, gồm: 50.000.000 đồng nợ gốc và 8.173.750 đồng nợ lãi trong hạn và 30.157.488 nợ lãi quá hạn đến ngày 21 tháng 6 năm 2022. Ngoài ra, bị đơn còn phải chịu tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc từ ngày 22 tháng 6 năm 2022 theo Điều 23 của Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016 và điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm cho đến khi thanh toán hết nợ.

[3] Về án phí: Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bị đơn phải chịu 4.416.562 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 14 Điều 4, khoản 2 Điều 91 và khoản 1 Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 05 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A.

Buộc bà Hà Thái U có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A tổng số tiền 88.331.238 đồng còn nợ theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 21 tháng 12 năm 2017 và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016, gồm: 50.000.000 đồng nợ gốc và 8.173.750 đồng nợ lãi trong hạn và 30.157.488 đồng nợ lãi quá hạn tính đến ngày 21 tháng 6 năm 2022.

2. Về án phí: Bà Hà Thái U phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 4.416.562 đồng đồng.

Kể từ ngày 22 tháng 6 năm 2022 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 21 tháng 12 năm 2017 và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có hiệu lực từ ngày 15 tháng 8 năm 2016 nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A 1.358.709 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp theo biên lai số AA/2019/003067X ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 183/2022/DS-ST

Số hiệu:183/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về