TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 117/2021/DS-ST NGÀY 24/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 24 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 149/2021/TLST- DS ngày 15 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2021/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 125/2021/QĐST-DS ngày 06 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: NGÂN HÀNG V. Địa chỉ trụ sở chính: 89 LH, phường L, quận Đ, Thành phố H. Địa chỉ liên lạc: Tầng 1, số 96 CT, P.A, Q.B, Tp. M.
Người đại diện theo pháp luật: ông NGÔ CHÍ D - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: ông ĐỖ THÀNH T- Chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm Xử lý nợ pháp lý.
Theo Văn bản ủy quyền số 25/2020/UQ-HĐQT ngày 07/07/2020 của Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Ủy quyền lại cho anh Phan Văn D, sinh năm 1993. Địa chỉ: Số 06, đường L, phường A, thành phố T, tỉnh LA (xin vắng mặt).
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L, Sinh năm: 1973 và ông Lê Hoàng C, sinh năm 1980.
Cùng địa chỉ: ấp H, xã X, huyện C, tỉnh T (cùng vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày ghi ngày 15/3/2021, trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng V trình bày:
Ngân hàng V đã cho ông Lê Hoàng C và bà Nguyễn Thị L ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng V – VPBank chi nhánh Long An, theo hợp đồng tín dụng số 5965209/LAN/HĐTD ngày 28/01/2016 và hợp đồng thẻ tín dụng số 157-P-829083 với số tiền là 125.000.000 đồng, mục đích vay tiêu dùng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là quyền sở hữu, sử dụng xe ô tô tải nhãn hiệu CHANAN, số loại SC1022, số khung RPMKN2F3CFN000046, số máy JL465QBF5BAK000676 mang biển số 63C- 073.55 do ông Lê Hoàng C đứng tên, do phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tiền Giang cấp ngày 28/01/2016. Theo hợp đồng thế chấp xe ô tô số 5965209/LAN/HĐTCSP ngày 28/01/2016.
Quá trình thực hiện hợp đồng, ông,bà đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo các Hợp đồng đã ký. Phía VPBank đã nhiều lần liên hệ và tạo điều kiện nhưng ông, bà cố tình không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Ngân hàng V quyết định khởi kiện ông C, bà L ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với HĐTD số 5965209/LAN/HĐTD ngày 28/01/2016 ông, bà đã đóng được số tiền, 121.568.102 đồng, trong đó nợ gốc là 78.373.771 đồng và nợ lãi là 43.194.331 đồng, ông C, bà Lđã vi phạm nghĩa vụ trả nợ từ ngày 21/04/2020. Tạm tính đến ngày 24/12/2021 ông C, bà L còn nợ Ngân hàng số tiền 43.342.675 đồng trong đó nợ gốc là 36.636.219 đồng, nợ lãi là 6.706.456 đồng.
Nay yêu cầu bà L, ông C trả cho Ngân hàng V số tiền 43.342.675 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày 25/12/2021 nếu bà L, ông C không thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì còn phải tiếp tục trả lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 5965209/LAN/HĐTD ngày 28/01/2016.
Trường hợp bà L, ông C không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, đề nghị Tòa án tuyên phát mại tài sản thế chấp là quyền sở hữu, sử dụng xe ô tô tải nhãn hiệu CHANAN, số loại SC1022, số khung RPMKN2F3CFN000046, số máy JL465QBF5BAK000676 mang biển số 63C-073.55 do ông Lê Hoàng C đứng tên, do phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tiền Giang cấp ngày 28/01/2016.
Ngân hàng V xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện yêu cầu ông C, bà L trả số tiền 10.000.000 đồng theo hợp đồng thẻ tín dụng số 157-P-829083.
* Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn, toàn bộ các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, thông báo về phiên họp, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ nhưng ông C, bà L vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng V là Phan Văn D xin vắng mặt tại phiên tòa, bị đơn bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt lần thứ 2, không lý do nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Đại diện của nguyên đơn Ngân hàng V xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, đây là quyền tự định đoạt của của đương sự theo quy địn tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền vay theo hợp đồng tín dụng đã ký nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung yêu cầu: Ngân hàng giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, Bị đơn vắng mặt không lý do, Hội đồng xét xử nhận định:
3.1. Hợp đồng tín dụng cho vay tiền giữa Ngân hàng với bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C có lập thành văn bản, nội dung không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự, nên được pháp luật công nhận.
3.2. Bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C đã nhận đủ tiền vay nhưng không thực hiện đúng cam kết trả nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận. Tính đến ngày 24/12/2021 (ngày xét xử), theo hợp đồng cho vay số 5965209/LAN/HĐTD ký ngày 28/10/2016 bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C còn nợ 43.342.675 đồng (có bảng kê kèm theo) nên Ngân hàng yêu cầu bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C có nghĩa vụ trả tiền còn nợ ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở và phù hợp quy định pháp luật. Căn cứ Điều 466 của Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận khởi kiện của ngân hàng.
3.3. Về yêu cầu đối với tài sản thế chấp: Xét hợp đồng thế chấp số 5965209/LAN/HCM/HĐTCSP ký ngày 28/11/2016 đã được công chứng và đã đăng ký giao dịch bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật nên được pháp luật công nhận. Nếu bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan có thẩm quyền kê biên, bán tài sản thế chấp để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng.
[4] Về tiền lãi: Xét Ngân hàng yêu cầu kể từ ngày kể từ ngày 25/12/2021 nếu bà L, ông C không thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì còn phải tiếp tục trả lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 5965209/LAN/HĐTD ngày 28/01/2016 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ còn thiếu là phù hợp với quy định tại Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng nên chấp nhận.
[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thực hiện nghĩa vụ cho Ngân hàng theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 5, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
- Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V.
1. Buộc bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C trả cho Ngân hàng V số tiền 43.342.675 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
2. Kể từ ngày 25/12/2021, nếu bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C không thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì phải tiếp tục trả lãi theo hợp đồng tín dụng số 5965209/LAN/HĐTD ký ngày 28/10/2016 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ còn thiếu.
3. Ngân hàng V xóa thế chấp và trả lại cho bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 63C – 073.55 do Phòng cảnh sát giao thông Công an Tiền Giang cấp ngày 26/01/2016 khi bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Nếu bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì Ngân hàng V có quyền đề nghị Cơ quan có thẩm quyền kê biên, bán tài sản thế chấp là xe ô tô tải nhãn hiệu CHANGAN, số loại SC1022, số khung RPMKN2F3CFN000046, số máy JL465QBF5BAK000676645046, biển kiểm soát 63C – 073.55 do Phòng cảnh sát giao thông Công an Tiền giang cấp ngày 26/01/2016 để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C cho Ngân hàng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V đối với yêu cầu bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C trả cho số tiền 10.000.000đ theo đồng hợp đồng cho vay số 157- P-829083 ký ngày 28/10/2016. Ngân hàng V có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại theo quy định tại khoản 1 Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự.
5. Về án phí: Bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hoàng C phải chịu số tiền 2.167.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho Ngân hàng V1.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0000118 ngày 15/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 117/2021/DS-ST
Số hiệu: | 117/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cai Lậy - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về