TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH G
BẢN ÁN 08/2023/DS-ST NGÀY 01/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 01 tháng 6 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2021/TLST - DS ngày 08/6/2021, về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2023/QĐXXST-DS ngày 24/4/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2023/QĐST- DS ngày 10/5/2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng NT Địa chỉ: 198 Trần Quang Khải, quận H, thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quang D, chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị..
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Võ Thị Hoàng Tr - Chức vụ: Phó phòng phụ trách Phòng giao dịch Đ - Phòng Khách hàng - Ngân hàng NT - chi nhánh Bắc G. Có mặt.
Bị đơn: Ông Phạm Văn Th, sinh năm: 1975. Địa chỉ: Thôn ĐH, xã ĐK, huyện Đ, tỉnh G. Vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Ngô Thị Hoàng D, sinh năm: 1986. Địa chỉ: Thôn ĐH, xã ĐK, huyện Đ, tỉnh G. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, các bản khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn Ngân hàng NT trình bày: Ngân hàng NT - chi nhánh Bắc G (sau đây gọi tắt là Ngân hang) có ký kết Hợp đồng tín dụng cho vay từng lần ngăn hạn số 1700/19/CT/BGL ngày 18/7/2019 để cho ông Phạm Văn Th vay số tiền 150.000.000 đồng; thời hạn vay vốn: 11 tháng kể từ ngày rút vốn; lãi suất 9,5%/năm; mục đích vay vốn: Làm ăn kinh tế gia đình (chăm sóc cà phê kinh doanh).
Để đảm bảo cho khoản vay ông Phạm Văn Th đã ký kết Hợp đồng thế chấp số 14/08A/NHNT ngày 14/8/2018 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 01/14/08A/NHNT ngày 18/7/2019 thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và các tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 56, tờ bản đồ số 18, địa chỉ tại làng D, xã K, huyện Đ, tỉnh G.
Trong quá trình quan hệ tín dụng, ông Th vi phạm hợp đồng, không trả gốc và lãi cho Ngân hang mặc dù ngân hàng đã nhiều lần làm việc, yêu cầu trả nợ.
Vì vậy, ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Phạm Văn Th phải trả cho nguyên đơn tổng số tiền 203.390.811 đồng (Hai trăm lẻ ba triệu ba trăm chín mươi ngàn tám trăm mười một đồng), trong đó nợ gốc còn nợ là 148.438.424 đồng, số tiền lãi trong hạn là 42.476.483 đồng, số tiền lãi quá hạn là 12.475.904 đồng.
Trường hợp ông Th không trả được nợ gốc và nợ lãi cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp tại Hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn là ông Phạm Văn Th và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Ngô Thị Hoàng D đến tham gia tố tụng. Tuy nhiên, ngoài lời khai tại bản tự khai của ông Th thừa nhận khoản nợ thì sau đó ông Th và bà D đều vắng mặt không có lý do.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán; Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn tổng số tiền là 203.390.811 đồng (Hai trăm lẻ ba triệu ba trăm chín mươi ngàn tám trăm mười một đồng), trong đó nợ gốc còn nợ là 148.438.424 đồng, số tiền lãi trong hạn là 42.476.483 đồng, số tiền lãi quá hạn là 12.475.904 đồng. Trường hợp ông Th không trả được nợ gốc và nợ lãi cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp tại Hợp đồng thế chấp đã ký kết để thu hồi nợ; Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, án phí dân sự sơ thẩm: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến tống đạt và niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng đối với bị đơn là ông Phạm Văn Th, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Ngô Thị Hoàng D. Tuy nhiên, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình. Căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Th, bà D.
[2] Về nội dung: Ngân hàng NT - chi nhánh Bắc G (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) có ký kết Hợp đồng tín dụng cho vay từng lần ngăn hạn số 1700/19/CT/BGL ngày 18/7/2019 để cho ông Phạm Văn Th vay số tiền 150.000.000 đồng; thời hạn vay vốn: 11 tháng kể từ ngày rút vốn; lãi suất 9,5%/năm; mục đích vay vốn: Làm ăn kinh tế gia đình (chăm sóc cà phê kinh doanh).
Để đảm bảo cho khoản vay ông Phạm Văn Th đã ký kết Hợp đồng thế chấp số 14/08A/NHNT ngày 14/8/2018 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 01/14/08A/NHNT ngày 18/7/2019 thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và các tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 56, tờ bản đồ số 18, địa chỉ tại làng D, xã K, huyện Đ, tỉnh G theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 984785 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh G cấp ngày 18/6/2018 cho ông Phạm Văn Th. Tài sản thế chấp này là tài sản riêng của ông Th có trước thời kỳ hôn nhân với bà Ngô Thị Hoàng D do đó chỉ có một mình ông Th đứng tên. Khi ly hôn với ông Th vào tháng 4/2019, bà D không có tranh chấp hay yêu cầu giải quyết gì đối với tài sản này.
Hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa các bên là tự nguyện, phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng nên hợp pháp. Hợp đồng thế chấp nêu trên đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật nên có hiệu lực pháp luật.
Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên nguyên đơn yêu cầu giải quyết buộc ông Phạm Văn Th phải trả phải trả cho nguyên đơn tổng số tiền 203.390.811 đồng (Hai trăm lẻ ba triệu ba trăm chín mươi ngàn tám trăm mười một đồng), trong đó nợ gốc còn nợ là 148.438.424 đồng, số tiền lãi trong hạn là 42.476.483 đồng, số tiền lãi quá hạn là 12.475.904 đồng. Trường hợp ông Th không trả được nợ gốc và nợ lãi cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp tại Hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ là có căn cứ, đúng pháp luật, được chấp nhận.
[3] Về chí phí xem xét thẩm định tại chỗ: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 9.152.799 đồng. Nguyên đơn đã nộp đủ số tiền này. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc ông Th phải trả lại cho nguyên đơn số tiền 9.152.799 đồng.
[5] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu toàn bộ số tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Các Điều 317, 318, 319, 320, 322, 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự;
- Các Điều 90, 91, Điều 94, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 1 Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.
- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng NT.
Buộc ông Phạm Văn Th phải trả cho Ngân hàng NT tổng số tiền 203.390.811 đồng (Hai trăm lẻ ba triệu ba trăm chín mươi ngàn tám trăm mười một đồng), trong đó nợ gốc còn nợ là 148.438.424 đồng, số tiền lãi trong hạn là 42.476.483 đồng, số tiền lãi quá hạn là 12.475.904 đồng.
Việc tính lãi và cả lãi suất nợ quá hạn đối với các khoản vay của tổ chức tín dụng phải theo đúng hợp đồng đã ký kết kể từ khi giao dịch cho đến khi thanh toán hết các khoản nợ gốc và lãi phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng. Khi tính lãi chỉ tính lãi của số tiền nợ gốc còn phải thi hành án mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án.
Đối với trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi; hoặc khoản tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp ông Phạm Văn Th không trả được nợ gốc và nợ lãi nêu trên thì Ngân hàng NT có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại các tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số 14/08A/NHNT ngày 14/8/2018 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 01/14/08A/NHNT ngày 18/7/2019 mà ông Th đã ký kết với Ngân hàng để thu hồi nợ.
2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 9.152.799 đồng. Nguyên đơn đã nộp đủ số tiền này. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc ông Th phải trả lại cho nguyên đơn số tiền 9.152.799 đồng.
3. Về án phí:
- Buộc ông Phạm Văn Th phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là 10.169.540 đồng (Mười triệu một trăm sáu mươi chín nghìn năm trăm bốn mươi đồng).
- Hoàn trả lại cho Ngân hàng NT số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.920.804 đồng (Ba triệu chín trăm hai mươi nghìn tám trăm lẻ bốn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0000783 ngày 06/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh G.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (01/6/2023), nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án; Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn nêu trên kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 08/2023/DS-ST
Số hiệu: | 08/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Cơ - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về