Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 07/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 07/2023/DS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 23 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 64/2022/TLST- DS ngày 14/12/2022 về việc tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2023/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 3 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2023/QDDS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Xăng dầu P (PG BANK); Địa chỉ: Tầng 16, 23, 24, Tòa nhà Mipec, số 229 Tây Sơn, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang Đ – Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người được ủy quyền: Ông Trần Văn L - Phó Giám đốc Chi nhánh Hà Nội – Ngân hàng TMCP Xăng dầu P. Người được ủy quyền tham gia tố tụng bà Nguyễn Minh T, chuyên viên xử lý và thu hồi nợ, Ngân hàng TMCP Xăng dầu P, có mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Mạnh C, sinh năm 1985; chị Uông Thị H, sinh năm 1986; Cùng địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, vắng măt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Hoàng Mạnh Q, sinh năm 1958, vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960, vắng mặt.

+ Cháu Hoàng Kim N, sinh năm 2010;

+ Cháu Hoàng Kim N2, sinh năm 2011;

+ Cháu Hoàng Mạnh Minh Đ, sinh năm 2014;

Cùng địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

- Người đại diện hợp pháp cho cháu Hoàng Kim N, cháu Hoàng Kim N2, cháu Hoàng Mạnh Minh Đ là: Anh Hoàng Mạnh C, sinh năm 1985; chị Uông Thị H, sinh năm 1986; Cùng địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn Ngân hàng TMCP Xăng dầu P (PG BANK) trình bày:

Anh Hoàng Mạnh C và chị Uông Thị H vay vốn tại PG Bank theo Hợp đồng tín dụng số 122.0115/2020/HĐTD-CN/PGBHN ngày 20/01/2020. Số tiền vay: 1.300.000.000 đồng (Bằng chữ: Một tỷ, ba trăm triệu đồng chẵn);Thời hạn vay: 60 tháng (kể từ ngày tiếp theo của ngày PG Bank giải ngân vốn vay lần đầu); Mục đích sử dụng vốn: Vay bổ sung vốn kinh doanh cho hoạt động mua máy móc, thiết bị nhà xưởng; Lãi suất vay trong hạn: 12%/năm trong 3 tháng đầu; Điều chỉnh lãi suất: 03 tháng/lần vào ngày đầu tiên của kỳ điều chỉnh, được tính bằng lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 18 tháng lĩnh lãi cuối kỳ tại PG Bank tại thời điểm điều chỉnh cộng (+) biên độ 4%/năm; Lãi suất quá hạn: bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn áp dụng đối với nợ gốc quá hạn; Lãi suất chậm trả: bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả và có thể được PG Bank điều chỉnh theo quy định của PG Bank trên cơ sở phù hợp với quy định của NHNN trong từng thời kỳ. Phương thức trả nợ: trả nợ gốc vào ngày 26 hàng tháng, số tiền gốc anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H phải trả trong 47 kỳ đầu là 21.667.000 đồng, số tiền gốc phải trả kỳ cuối cùng là 21.647.000 đồng. Trả nợ lãi 01 tháng/lần vào ngày 26 của tháng.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên của anh Hoàng Mạnh C và chị Uông Thị H là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 164, tờ bản đồ số 01, địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 569687, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H00523 do UBND huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) cấp ngày 29/12/2006 cho ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H.

Hợp đồng thế chấp số công chứng 467 HĐTC, quyển số 01/2020 TP/CC- SCC/HĐGD ngày 20/01/2020 tại Văn phòng Công chứng Hà Đông, thành phố Hà Nội; Đơn đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 000523.TC.004 ngày 21/01/2020 tại Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội, chi nhánh huyện Đan Phượng.

Sau khi ký Hợp đồng tín dụng vay vốn tại PG Bank, các Bên đã thực hiện nghĩa vụ như sau: Thực hiện Hợp đồng tín dụng số 122.0115/2020/HĐTD- CN/PGBHN ngày 20/01/2020 PG Bank đã giải ngân cho anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H 01 lần với tổng số tiền là 1.300.000.000 đồng theo Đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 122.0115/2020/ĐNGN-KUNN/CN/PGBHN ngày 22/01/2020.

Anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H đã ngừng thực hiện nghĩa vụ thanh toán từ ngày 27/01/2022, khoản nợ đã chuyển nợ quá hạn từ ngày 26/03/2022.

Kể từ ngày phát sinh nợ quá hạn, PG Bank đã nhiều lần yêu cầu anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H, bên Thế chấp thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho PG Bank nhưng đến nay anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H vẫn chưa trả nợ, bên Thế chấp không chịu bàn giao tài sản để xử lý thanh toán khoản vay được bảo đảm.

Như vậy anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H và bên Thế chấp đã vi phạm các điều khoản cam kết về nghĩa vụ trả nợ, nghĩa vụ bảo đảm đã quy định tại Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp đã ký với PG Bank nên PG Bank buộc anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H thanh toán cho PG Bank số tiền còn nợ tạm tính đến ngày 08/5/2023, tổng số tiền 1.254.587.682 đồng trong đó: Nợ gốc:

981.765.753 đồng; Nợ lãi trong hạn 225.110.726 đồng, lãi quá hạn 47.711.203 đồng.

Về phần lãi sẽ được tiếp tục tính từ ngày 09/5/2023 cho đến khi anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H thanh toán toàn bộ khoản nợ tại PG Bank theo mức lãi suất thỏa thuận tại các Hợp đồng tín dụng và các Giấy nhận nợ kèm theo. Trường hợp Anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H chậm trả lãi thì phải chịu tiền lãi chậm trả trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ kèm theo.

Ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H không thanh toán đủ số nợ nêu trên cho PG Bank thì đề nghị Tòa án tuyên cho PG Bank được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho PG Bank là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 164, tờ bản đồ số 01, địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 569687, số vào sổ cấp GCN QSDĐ: H00523 do UBND huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) cấp ngày 29/12/2006 cho ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H.

Trường hợp sau khi xử lý các tài sản bảo đảm nêu trên không đủ thực hiện nghĩa vụ trả nợ, PG Bank có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án có thẩm quyền xác minh điều kiện thi hành án của anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H để thu hồi toàn bộ khoản nợ.

Bị đơn anh Hoàng Mạnh C trình bày: Để phát triển kinh tế gia đình nên vào ngày 20/01/2020 vợ chồng anh có vay Ngân hàng TMCP Xăng dầu P số tiền 1.300.000.000 đồng, sau khi vay do tình hình dịch bệnh Covid nên làm ăn gặp khó khăn, vợ chồng anh mới trả được 318.234.247 đồng tiền gốc và 154.785.440 tiền lãi. Tính đến ngày 08/5/2023, tổng số tiền còn nợ là 1.254.587.682 đồng (trong đó: Nợ gốc: 981.765.753 đồng; Nợ lãi trong hạn 225.110.726 đồng, lãi quá hạn 47.711.203 đồng). Do điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn nên anh đề nghị Ngân hàng tạo điều kiện giảm phần lãi cho vợ chồng anh.

Nếu vợ chồng anh không thanh toán đủ số nợ nêu trên thì PG Bank được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho PG Bank là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 164, tờ bản đồ số 01, địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 569687, số vào sổ cấp GCN QSDĐ: H00523 do UBND huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) cấp ngày 29/12/2006 cho ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án thông báo cho chị Uông Thị H biết việc ngân hàng khởi kiện và tống đạt các văn bản tố tụng cho chị Uông Thị H nhưng chị H vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H trình bày: Vào ngày 20/01/2020 vợ chồng anh C, chị H là con trai, con dâu của ông, bà có vay Ngân hàng TMCP Xăng dầu P số tiền 1.300.000.000 đồng để làm ăn, khi anh chị vay tiền có nhờ vợ chồng ông bà cho mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ông, bà đã ký thế chấp thửa đất để bảo lãnh cho anh C, chị H vay khoản tiền 1.300.000.000 đồng của Ngân hàng, sau khi vay tiền do dịch bệnh Covid làm ăn gặp khó khăn nên anh C, chị H mới trả được một phần gốc và một phần lãi, tính đến ngày 08/5/2023, tổng số tiền còn nợ là 1.254.587.682 đồng (trong đó: Nợ gốc:

981.765.753 đồng; Nợ lãi trong hạn 225.110.726 đồng, lãi quá hạn 47.711.203 đồng. Nay ông, bà đề nghị Ngân hàng tạo điều kiện cho anh C, chị H trả nợ dần, nếu anh chị không trả được số nợ trên thì ông bà đề nghị giải quyết theo qui định.

Tại phiên tòa: Đại diện Ngân hàng TMCP Xăng dầu P giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H, yêu cầu anh C, chị H trả ngân hàng số tiền tạm tính đến ngày 08/5/2023 là 1.254.587.682 đồng, trong đó: Nợ gốc: 981.765.753 đồng; lãi trong hạn 225.110.726 đồng, lãi quá hạn 47.711.203 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Từ khi thụ lý vụ án, cũng như quá trình điều tra, thu thập chứng cứ vụ án, Toà án đã thực hiện đúng trình tự tố tụng. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát huyện Đan Phượng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 91, 95 Luật tổ chức tín dụng, buộc anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H phải thanh toán toàn bộ số nợ cho Ngân hàng, tính đến ngày 08/5/2023 là 1.254.587.682 đồng bao gồm cả nợ gốc và nợ lãi. Kể từ ngày 09/5/2023, anh C và chị H có trách nhiệm tiếp tục chịu lãi suất trả tiền lãi phát sinh trên số dư nợ theo lãi suất thoả thuận tại HĐ tín dụng trên cho đến khi thanh toán xong toàn bộ tiền nợ. Nếu anh C và chị H không trả cho Ngân hàng số nợ trên thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự kê biên, phát mại tài sản bảo đảm là Quyền sử dụng đất và tài sản trên đất đứng tên ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H.

Về án phí: Anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Ngân hàng TMCP Xăng dầu P và anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H ký kết Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng cho anh C, chị H vay tiền để sử dụng vào mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh cho hoạt động mua máy móc, thiết bị nhà xưởng. Do anh C, chị H không trả được nợ theo thoả thuận trong hợp đồng, Ngân hàng TMCP Xăng dầu P khởi kiện đòi nợ nên xác định đây là quan hệ pháp luật dân sự về tranh chấp Hợp đồng tín dụng, được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc giao các văn bản tố tụng cho các đương sự để thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ theo qui định pháp luật nhưng bị đơn chị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Q không đến Tòa án, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không hòa giải được những nội dung trong vụ án. Căn cứ vào Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa: Anh Hoàng Mạnh C và chị Uông Thị H, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt nên Tòa án xét xử vụ án theo trình tự tố tụng pháp luật qui định.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu điều tra do các đương sự xuất trình thì có căn cứ xác định ngày 20/01/2020 anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H và Ngân hàng TMCP Xăng dầu P có ký kết Hợp đồng tín dụng số 122.0115/2020/HĐTD-CN/PGBHN, Thời hạn vay: 60 tháng, Mục đích sử dụng bổ sung vốn kinh doanh cho hoạt động mua máy móc, thiết bị nhà xưởng; Lãi suất vay trong hạn: 12%/năm trong 3 tháng đầu; Điều chỉnh lãi suất: 03 tháng/lần vào ngày đầu tiên của kỳ điều chỉnh, được tính bằng lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 18 tháng lĩnh lãi cuối kỳ tại PG Bank tại thời điểm điều chỉnh cộng (+) biên độ 4%/năm; Lãi suất quá hạn: bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn áp dụng đối với nợ gốc quá hạn; Lãi suất chậm trả: bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả và có thể được PG Bank điều chỉnh theo quy định của PG Bank trên cơ sở phù hợp với quy định của NHNN trong từng thời kỳ. Phương thức trả nợ: trả nợ gốc vào ngày 26 hàng tháng, số tiền gốc khách hàng phải trả trong 47 kỳ đầu là 21.667.000 đồng, số tiền gốc phải trả kỳ cuối cùng là 21.647.000 đồng. Trả nợ lãi 01 tháng/lần vào ngày 26 của tháng.

Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, do anh C, chị H không trả nợ tiền gốc và tiền lãi theo đúng thoả thuận qui định trong Hợp đồng tín dụng được hai bên ký kết, vì vậy ngày 26/03/2022 Ngân hàng đã chuyển số nợ của anh C, chị H vay sang nợ quá hạn. Từ đó đến nay, anh C, chị H không trả được nợ nên Ngân hàng khởi kiện đòi nợ. Trong Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ, bảng tóm tắt sao kê thể hiện anh C, chị H có vay Ngân hàng số tiền là 1.300.000.000 đồng. anh C, chị H đã trả được một phần tiền nợ gốc và nợ lãi, do làm ăn gặp khó khăn không trả được nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận nên anh C, chị H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. NayNgân hàng khởi kiện đòi nợ đối với anh C và chị H là có căn cứ, đúng theo quy định pháp luật.

Ngân hàng yêu cầu anh C, chị H thanh toán số nợ tính đến ngày 08/5/2023 số tiền: 1.254.587.682 đồng (Một tỷ hai trăm năm mươi tư triệu năm trăm tám mươi bảy nghìn sáu trăm tám mươi hai đồng), trong đó nợ gốc: 981.765.753 đồng; nợ lãi trong hạn: 225.110.726 đồng; nợ lãi quá hạn: 47.711.203 đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, số tiền vay gốc được thể hiện trong Hợp đồng tín dụng, Giấy nhận nợ và các văn bản thanh toán, phù hợp với qui định pháp luật nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với anh C, chị H, buộc anh C, chị H phải thanh toán trả Ngân hàng số tiền: 1.254.587.682 đồng (Một tỷ hai trăm năm mươi tư triệu năm trăm tám mươi bảy nghìn sáu trăm tám mươi hai đồng), trong đó nợ gốc: 981.765.753 đồng; nợ lãi trong hạn: 225.110.726 đồng; nợ lãi quá hạn: 47.711.203 đồng.

[3]. Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp: Để đảm bảo cho khoản nợ vay của Ngân hàng TMCP Xăng dầu P, ngày 20/01/2020 ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H đã thế chấp Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 164, tờ bản đồ số 01, địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 569687, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H00523 do UBND huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) cấp ngày 29/12/2006 cho ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 467 HĐTC, quyển số 01/2020 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20/01/2020 tại Văn phòng Công chứng Hà Đông, thành phố Hà Nội và đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Như vậy, xác định ngôi nhà và các tài sản trên đất mà ông Q, bà H, anh C, chị H và các con của anh C, chị H đang sinh sống thuộc tài sản thế chấp để bảo đảm cho khoản vay của anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H với Ngân hàng. Trường hợp anh C, chị H không trả được số nợ trên thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đấtvà tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 164, tờ bản đồ số 01, địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội để thanh toán nghĩa vụ trả nợ.

Kể từ ngày 09/5/2023, anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H còn phải thanh toán tiền lãi suất phát sinh đối với số nợ gốc theo mức lãi suất các bên thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng, cho đến khi anh C, chị H thanh toán xong khoản nợ. Khi anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H thanh toán xong khoản nợ thì Ngân hàng TMCP Xăng dầu P phải trả lại cho anh C, chị H các giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất, tài sản thế chấp các bên đã ghi nhận trong Hợp đồng thế chấp.

[4]. Về án phí: Ngân hàng TMCP Xăng dầu P được chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội. Anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 91, 95 Luật tổ chức tín dụng; Điều 317, 318, 319, 320, 323, Điều 463, 466, Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Xăng dầu P (PG BANK) đối với anh Hoàng Mạnh Chiến, chị Uông Thị H.

2. Buộc anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H phải trả Ngân hàng TMCP Xăng dầu P số tiền vay theo Hợp đồng tín dụng số 122.0115/2020/HĐTD-CN/PGBHN ngày 20/01/2020, tạm tính đến ngày 08/5/2023 số tiền: 1.254.587.682 đồng (Một tỷ hai trăm năm mươi tư triệu năm trăm tám mươi bảy nghìn sáu trăm tám mươi hai đồng), trong đó nợ gốc: 981.765.753 đồng; nợ lãi trong hạn: 225.110.726 đồng; nợ lãi quá hạn: 47.711.203 đồng.

Kể từ ngày 09/5/2023, anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H còn phải chịu tiền lãi phát sinh đối với khoản nợ gốc theo mức lãi suất thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng đã được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Xăng dầu P với anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H, cho đến khi anh C, chị H trả hết khoản nợ.

(Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay).

Trường hợp anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng TMCP Xăng dầu P thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mại tài sản thể chấp để thu hồi khoản nợ. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đấtvà tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 164, tờ bản đồ số 01, diện tích 95,8 m2 địa chỉ: Cụm 1, xã L, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 569687, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H00523 do UBND huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) cấp ngày 29/12/2006 cho ông Hoàng Mạnh Q và bà Nguyễn Thị H theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 467 HĐTC, quyển số 01/2020 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20/01/2020 tại Văn phòng Công chứng Hà Đông, thành phố Hà Nội; Đơn đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 000523.TC.004 ngày 21/01/2020 tại Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội, chi nhánh huyện Đan Phượng.

Khi anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H hoàn thành nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP Xăng dầu P phải có trách nhiệm trả lại cho ông Q, bà H các giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản đã thế chấp được ghi nhận trong Hợp đồng thế chấp tài sản giữa hai bên.

3. Về án phí: Anh Hoàng Mạnh C, chị Uông Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 49.637.000 đồng (Bốn mươi chín triệu sáu trăm ba bảy nghìn đồng). Trả lại Ngân hàng TMCP Xăng dầu P số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002991 ngày 14/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

4. Quyền kháng cáo: Ngân hàng TMCP Xăng dầu P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 07/2023/DS-ST

Số hiệu:07/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về