TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 06/2023/DS-ST NGÀY 01/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 01 tháng 02 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 06/2022/TLST-DS ngày 12 tháng 10 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2022/QĐXX-ST ngày 26-12-2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST-DS ngày 10-01-2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Trụ sở: số 02, Phường Láng Hạ, Quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn Thành – Chức vụ: Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Nghĩa – Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh Phú Riềng, Bình Phước.
Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Phạm Mạnh Cương – Chức vụ: Trưởng phòng, Phòng kinh doanh, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh Phú Riềng, Bình Phước.
Bị đơn:Ông Phạm Hồng H - Sinh năm: 1977 (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn A, xã B, Huyện C, tỉnh Bình Phước.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ lien quan:
1/ Ông Phạm Văn B , sinh năm: 1950 (Vắng mặt) 2/ Bà Bùi Thị Đ , sinh năm 1956 (Có mặt) 3/ Ông Phạm Hồng H, Sinh Năm: 1986(Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn A, xã B, Huyện C, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại diện nguyên đơn ông Phạm Mạnh Cương trình bày:
Vào ngày 25 tháng 05 năm 2021, sau khi thoa thuân , ông Pham Hông H đa ky hơp đông tin dung đê vay tiên tai Ngân hang Nông nghiêp va phat triên nông thôn Viêt Nam chi nhanh huyên Phu Riêng Binh Phước như sau:
1. Hơp đông tin dung sô: 202101368, ngày 25/5/2021 - Sô tiên vay: 4.000.000.000 đ (Băng chư: Bôn ty đông chăn);
- Ngày vay: 25/5/2021 thơi han vay: 6 tháng, - Ngày trả: 25/11/2021 - Lãi suất tại thời điểm vay vốn : Lãi suất trong hạn : 9.3%/năm, lãi suất quá hạn: 150% lãi suất cho vay trong hạn.
- Mục đích vay vốn: Kinh doanh nông san Đê đam bao cho khoan vay trên , ông Pham Hông H đa thê châp tai san đê đam bao tiên vay theo h ợp đồ ng thê châp quyên sư dụng đất & tài sản gắn liền vơi đât sô : 24.5.01P-2021/HĐTC ngay 24/5/2021. Tài sản thế chấp đê đam bao tiên vay gôm : Quyên sư dung đât , diên tich 1386 m2, theo giây chưng nhân quyên sư dung đât sô BH 391886, do UBND Huyên Bu Gia Mâp câp ngay 8/3/2012.
Trong qua trinh thưc hiên hơp đông, Ngân hang Nông nghiêp va phat triên nông thôn Viêt Nam - Chi nhanh huyên C, Bình Phước đã thực hiện hiện đúng hơp đông tin dun g đa ky kêt . Tuy nhiên ơng Pham Hông H đa không thưc hiên đung hơp đông tin dung , đo la không tra tiên gôc va lai nơ vay khi đên han . Măc du đa đươc can bô Ngân hang đôn đôc nhăc nhơ nhiêu lân nhưng ông Pham Hông H vân cô tinh dây dưa không tra nơ.
Căn cư vao hơp đông tin dung sô 202101386 ký ngày 25/5/2021 ông Phạm Hồng H : Sô tiên vay : 4.000.000.000 đ (Băng chư : Bôn ty đông chăn);Dưnơ: 4.000.000.000đ (Bôn ty đồng chẵn ). Như vây hiên nay đa qua han gôc tư ngay 26/11/2021 cho tơi nay.
Đê đam bao an toan nguôn vôn cua Nha nươc cung như đê hoat đông kinh doanh cua Ngân hang Nông nghiêp va phat triên nông thôn Viêt Nam đươc binh thương không bi an h hương xâu bơi hanh vi vi pham phap luât cua Ông Pham Hông H . Nay Ngân hang Nông nghiêp va phat triên nông thôn Viêt Nam chi nhánh huyện Phú Riềng Bình Phước yêu cầu tòa án xem xét buộc Ông Pham Hông H phải trả nợ số tiền gốc và lãi phát sinh theo hợp tín dụng đã ký như sau:
- Hơp đông tin dung: 202101386, ngày 25/5/2021 Nơ gôc va lai tam tinh đên ngay 29/8/2022 + Nơ gôc: 4.000.000.000đ + Nơ lai trong han: 517.449.863đ + Lãi quá hạn : 216.686.027đ Tông công : 4.548.680.000 đ (Bôn ty năm tram bôn mươi tam tri ệu sáu tram tam mươi ngàn đồng ) Trương hơp Ông Pham Hông H không co kha năng trả nợ cho Ngân hàng thì yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tài sản thế chấp bao gồm: Quyên sư dung đât , diên tich 1386 m2, theo giây chưng nhân quyên sư dung đât sô BH 391886, do UBND Huyên Bu Gia Mâp câp ngay 8/3/2012.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Ông Phạm Hồng H trình bày:
Ông H thống nhất với lời trình bày theo đơn khởi kiện của Ngân hang Nông nghiêp va phat triên nông thôn Viêt Nam chi nhanh huyên Phu Riêng Binh Phươc là vào ngày 25/5/2021Ông H có ký một hợp đồng tín dụng số 202101386 ngày 25/5/2021 với ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Phú Riềng để vay số tiền 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng), thời hạn vay là 06 (sáu) tháng tính từ ngày vay; Lãi suất là 9,3%/năm; lãi suất quá hạn là 150% lãi suất cho vay trong hạn; mục đích vay là để cho vay nông sản.
Để đảm bảo khoản vay thì Ông H có thế chấp tài sản của bố mẹ Ông H đã ủy quyền cho Ông H là quyền sử dụng đất diện tích là 1.386m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 391886 do Ủy ban nhân dân huyện Bù Gia Mập cấp cho ông Phạm Văn B và Bà Bùi Thị Đ ngày 08/3/2012 theo hợp đồng thế chấp số:24.5.01P-2021/HĐTC ngay 24/5/2021và được công chứng tại văn phòng công chứng Nguyễn Ngọc Tuyền có số công chứng là 04104 ngày 24/5/2021 trong quá trình sử dụng vốn vay do tình hình dịch Covid, làm ăn thua lỗ nên Ông H không có khả năng trả nợ cho ngân hàng gốc và lãi suất.
Nay trước yêu cầu khởi kiện của ngân hàng Ông H đồng ý trả nợ cho Ngân hàng số tiền gốc cũng như lãi suất, trong trường hợp khi Bản án có hiệu lực pháp luật mà Ông H không có khả năng trả nợ cho ngân hàng thì Ông H đồng ý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát mãi tài sản đã thế chấp cho Ngân hành để thu hồi nợ cho ngân hàng.
Trong quá trình giải quyết vụ ánngười có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ông Phạm Văn B và Bà Bùi Thị Đ trình bày:
Ông B, bà Đ là mẹ ruột của Ông Phạm Hồng H vào 19/12/2018 ông bà có ủy quyền cho Ông H đối với tài sản ủy quyền là quyền sử dụng đất của ông Bưng, bà Đ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BH 391866 số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 00712/ĐS do Ủy ban nhân dân huyện Bù Gia Mập ký ngày 08/3/2012 chỉnh lý biến động ngày 08/10/2018, cụ thể tên chủ sử dụng là ông Bưng, bà Đ thửa đất số 81; tờ bản đồ bản đồ số 25 tọa lạc tại thôn Phú Tân, xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước, diện tích 1386m2.
Ngày 19/12/2018 ông B, bà Đ có ủy quyền cho Ông Phạm Hồng H quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nói trên, việc ủy quyền trên ông Bưng, bà Đ có lập hợp đồng ủy quyền và có công chứng tại văn phòng công chứng Đỗ Mạnh Cường.
Thời điểm Ông H vay số tiền của Ngân hàng bao nhiêu thì ông B không biết nhưng sau này ông B mới biết. Trước yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thì ông B đồng ý, trong trường hợp nếu Ông H không trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn thì ông B đồng ý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát mãi tài sản đã thế chấp cho ngân hàng để thu hồi nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên ông B cũng mong Ngân hàng tạo điều kiện để ông B kiếm khách bán đất là tài sản thế chấp trên để trả nợ cho Ngân hàng ngoài ra ông B không có ý kiến gì khác. Hiện nay tài sản thế chấp này vẫn ra ông B, bà Đ quản lý sử dụng và có con trai là Phạm Hồng Hiếu ở cùng. Đối với bà Đ thì khi ủy quyền cho Ông H vay vốn của Ngân hàng Ông H chỉ nói là vay 100.000.000đ để làm ăn chứ không biết là Ông H vay số tiền là 04 tỷ, bà Đ từ chối ký biên bản lấy lời khai tại phiên tòa bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật Trong quá trình giải quyết vụ ánngười có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ông Phạm Hồng H trình bày:
Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H nhưng ông H không lên Tòa để làm việc cũng như từ chối làm việc với Tòa án nên không có lời trình bày của ông Hiếu.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng:
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc chấp hành các quy định pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Các bên đương sự thực hiền đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Về hướng giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 299, khoản 7 Điều 323, Điều 429, Điều 463 và khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Xét thấy:
[1] Đây là vụ án dân sự tranh chấp giữa cá nhân với tổ chức có đăng ký kinh doanh, về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”,bị đơn hiện có địa chỉ và cư trú tại xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng thụ lý và giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn Ông Phạm Hồng H có đơn xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ông Phạm Văn B và Phạm Hồng Hiếu vắng mặt không có ly do lần thứ 2 liên tiếp. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án ông Bđã trình bày rõ ý kiến, quan điểm của mình và đã được tòa án tống đạt văn bản tố tụng tham gia phiên tòa nhiều lần nhưng ông B vắng mặt không có lý do; còn ông H đã được tòa án tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam yêu cầu Tòa án buộc ông Phạm Hồng H trả cho Ngân hàng số tiền đã vay 4.000.000.000 đồng. Xét thấy, để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ nguyên đơn cung cấp hợp đồng tín dụng số: HĐTD 202101386 ngày 25/5/2021 có chữ ký của hai bên và Ông H cũng thừa nhận lời trình bày của nguyên đơn theo đơn khởi kiện là đúng. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đây được xem là chứng cứ không phải chứng minh. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định Ông Phạm Hồng H có ký hợp đồng tín dụng với nguyên đơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để vay số tiền 4.000.000.000 đồng và hiện chưa thanh toán nợ gốc cho Ngân hàng. Do vậy, cần buộc Ông Phạm Hồng H phảithanh toán số tiền đã vay nêu trên cho ngân hàng là phù hợp.
[4] Về yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn. Xét thấy, việc bị đơn ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để vay số tiền 4.000.000.000 đồng, các bên có thỏa thuận lãi suất trong hạn là 9,3%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150%lãi suất cho vay trong hạn , nhưng bị đơn không thanh toán tiền lãi cho Ngân hàng như đã thỏa thuận. Cụ thể, tiền lãi trong hạn tính từ ngày 16-01-2023 còn nợ số tiền là 518.677.260 đồng; lãi quá hạn với số tiền là 248.598.356 đồng. Tổng số tiền nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn tính đến ngày 16-01-2023 là 4.766.048.219 đồng. Do đó, buộc bị đơn phải thanh toán tổng số tiền trên cho nguyên đơn là phù hợp.
[5] Về yêu cầu tính lãi phạt do chậm thanh toán lãi. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại diện nguyên đơn không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về hợp đồng thế chấp tài sản: Để đảm bảo cho khoản vay trên Ông Phạm Hồng H ký hợp đồng số:24.5.01P-2021/HĐTC ngay 24/5/2021thế chấp cho Ngân hàng tài sản là các quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất là thửa đất số 81, tờ bản đồ số 25,có diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 1.386 m2, sô BH 391886, do UBND Huyên Bu Gia Mâp câp ngay 8/3/2012 cấp cho Ông Phạm Văn B và Bà Bùi Thị Đ , đất tọa lạc tại Thôn A, xã B, Huyện C, tỉnh Bình Phước. Tài sản thế chấp này ông B và bà Đ đã ủy quyền cho Ông H để Ông H đi thế chấp cho Ngân hàng khi vay vốn, việc ủy quyền này thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về ủy quyền. Qúa trình giải quyết vụ án ông B và bà Đ cũng thừa nhận việc có ủy quyền cho Ông H đi vay vốn và thế cháp của Ngân hàng và ông B cũng đồng ý theo yêu cầu cầu khởi kiện của Ngân hàng nhưng bà Đ cho rằng chỉ ủy quyền cho ông B vay vốn của Ngân hàng với số tiền chỉ là 100.000.000 đồng chứ không phải là số tiền 4.000.000.000 đồng nên bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và đeề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, việc ông B và bà Đ ủy quyền cho Ông H quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trên có văn bản ủy quyền và việc ủy quyền này thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về ủy quyền có Công chứng. Trong văn bản ủy quyền này cũng thể hiện rõ quyền và nghĩa vụ của bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền nên trường hợp này bản thân ông B và bà Đ phải biết rõ và pháp luật buộc ông, bà phải biết khi làm thủ tục ủy quyền cho Ông H nên để đảm bảo quyền lợi của ông, bà thì ông, bà phải giám sát Ông H khi vay vốn của Ngân hàng. Nhưng bà Đ không làm điều này mà giờ bà khai nại như trên là không có căn cứ và không phù hợp với quy định của pháp luật nên lời trình bày của bà là không được chấp nhận.Hợp đồng thế chấp giữa các bên tuân thủ đúng quy định tại Điều 317của Bộ luật dân sự năm 2015 nên có giá trị pháp lý ràng buộc giữa các bên. Do đó, trong trường hợp Ông H không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ trên cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ là phù hợp với quy định tại Điều 299 Bộ luật dân sự năm 2015.
[7] Căn cứ đơn yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ của nguyên đơn Ngân hàng, vào ngày 04-11-2022 Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng phối hợp với chính quyền địa phương tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp với chi phí 3.000.000 đồng. Số tiền này buộc bị đơn phải thanh toán lại cho nguyên đơn là phù hợp.
[8] Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Phạm Hồng H không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Phạm Hồng Hiểnphải nộp theo quy định của pháp luật.
Ngânhàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam không phải chịu án phí, hoàn trả lại cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp là phù hợp.
Vì các lẽ nêu trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Các Điều 228 và 266 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ các Điều 323, 463, 466 và 468 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 90 và 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện củanguyên đơnNgân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam về việc:“Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.Buộc Ông Phạm Hồng H phảithanh toán cho Ngân hàngnông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,tổng số tiền là: 4.766.048.219 đồng. Trong đó: nợ gốc 4.000.000.000 đồng, tổng nợ lãi tính đến ngày 16-01-2023 là 766.048.219 đồng.
Ngoài ra, ông Phạm Hồng H còn phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh kể từ ngày 17-01-2023 theo mức lãi suất nợ quá hạn quy định trong hợp đồng tín dụng số:202101386 ngày 25/5/2021 cho đến khi trả hết nợ.
Sau khi ông Phạm Hồng H hoàn tất nghĩa vụ thanh toán nợ nêu trên thì Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam có trách nhiệm trả lại toàn bộ bản chính giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp cho ông Phạm Hồng Hiển.
Trường hợpÔng Phạm Hồng H không thanh toán hoặc thanh toán không đúng hạn các khoản nợ trên thì nguyên đơn Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền phát mãi quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất là thửa đất số 81, tờ bản đồ số 25,có diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 1.386 m2, sô BH 391886, do UBND Huyên Bu Gia Mâp câp ngay 8/3/2012 cấp cho Ông Phạm Văn B và Bà Bùi Thị Đ , đất tọa lạc tại Thôn A, xã B, Huyện C, tỉnh Bình Phước theo hợp đồng thế chấp tài sản số: 24.5.01P- 2021/HĐTC ngay 24/5/2021để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
Số tiền thu được sau khi phát mãi tài sản nếu không đủ để trả nợ cho Ngân hàng thì ông Bình có trách nhiệm tiếp tục trả nợ cho đến khi đủ cho Ngân hàng, trường hợp còn dư thì trả lại cho ông Vương Văn Bình.
2/ Về chi phí tố tụng: Áp dụng Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Buộc ông Phạm Hồng Hiểnphải thanh toán cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Namsố tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).
3/ Án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Ông Phạm Hồng Hiểnphải nộp 112.768.503 đồng ().
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam không phải chịu án phí, hoàn trả lại cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp là53.639.600 đồng (), theo biên lai thu tiền số 0015853 ngày 12-10-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Riềng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nguyên đơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn ông Phạm Hồng Hiển; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Phạm Văn B và Ông Phạm Hồng H vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 06/2023/DS-ST
Số hiệu: | 06/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Riềng - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về