Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 03/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 03/2021/DS-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 02 năm 2021, Toà án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm số 16/2020/TLST-DS ngày 19 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/QĐST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 02/QĐST-DS ngày 27 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP SGTT (S) Địa chỉ: Số 266 - 268 đường NKKN, phường X, Quận Y, Tp. Hồ Chí Minh Người đại diện theo pháp luật: Chị Nguyễn Đức Thạch D, sinh năm 1973. Chức vụ: Tổng Giám đốc (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1972. Chức vụ: Giám đốc chi nhánh Bình Phước (vắng mặt) Người nhận ủy quyền lại: Chị Phạm Thị Thu H, sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố PT, phường TP, thành phố ĐX, tỉnh Bình Phước

- Bị đơn: Chị Nguyễn Ngọc G, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 12 khu phố PH, phường PT, thị xã BL, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 7 năm 2020 và quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thị Thu H trình bày:

Ngày 19 tháng 5 năm 2016, chị Nguyễn Ngọc G và Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT (gọi tắt là S) chi nhánh Bình Phước ký kết hợp đồng tín dụng số LD 1614000436, vay số tiền 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng, lãi suất 0,75%/tháng dư nợ ban đầu, thời hạn vay 36 tháng, thời điểm trả hết nợ ngày 19/5/2019, cho vay tín chấp không có tài sản bảo đảm. Quá trình vay, chị Nguyễn Ngọc G đã thanh toán cho S số tiền vốn, lãi hết ngày 30/10/2017. Từ kỳ trả nợ ngày 30/11/2017, chị Nguyễn Ngọc G không trả nợ cho S. Do chị Nguyễn Ngọc G vi phạm nghĩa vụ trả nợ, ngày 01/12/2017 S đã chuyển số nợ vay còn thiếu sang nợ quá hạn.

Mặc dù S đã đôn đốc, nhắc nhở chị Nguyễn Ngọc G có trách nhiệm thanh toán khoản nợ quá hạn, đồng thời S cũng tạo điều kiện về mặt thời gian để chị Nguyễn Ngọc G trả nợ, nhưng chị Nguyễn Ngọc G vẫn không thực hiện thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho S.

S khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc chị Nguyễn Ngọc G phải thanh toán tổng số tiền 78.514.856 (Bảy mươi tám triệu, năm trăm mười bốn ngàn, tám trăm năm mươi sáu) đồng, trong đó nợ gốc 51.291.000 đồng, lãi trong hạn 14.250.000 đồng, lãi quá hạn 12.973.856 đồng và lãi phát sinh cho đến khi trả dứt nợ theo lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng.

Tại phiên tòa: Chị Phạm Thị Thu H đề nghị Tòa án buộc chị Nguyễn Ngọc G phải thanh toán toàn bộ vốn gốc và lãi tạm tính đến ngày 26 tháng 02 năm 2021 là số tiền 79.323.230 (Bảy mươi chín triệu, ba trăm hai mươi ba ngàn, hai trăm ba mươi) đồng, trong đó nợ gốc 48.791.000 đồng, lãi trong hạn 14.250.000 đồng, lãi quá hạn 16.282.230 đồng và lãi phát sinh cho đến khi trả dứt nợ theo lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng. Ngoài ra chị Nguyễn Ngọc G phải chịu toàn bộ án phí, chi phí phát sinh liên quan.

* Đối với chị Nguyễn Ngọc G: Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, đã hết thời hạn theo quy định pháp luật mà chị Nguyễn Ngọc G không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của S. Đồng thời, Tòa án đã tống đạt hợp lệ hai lần thông báo về phiên họp, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng chị Nguyễn Ngọc G vẫn vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long tham dự phiên tòa phát biểu:

Việc chấp hành theo quy định pháp luật của Thẩm phán: Quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý cho đến nay, Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chị Nguyễn Ngọc G đã vi phạm tại các Điều 70, Điều 72 và điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử ăn cứ Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự và khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của S buộc chị Nguyễn Ngọc G có trách nhiệm trả cho S vốn gốc và lãi tạm tính đến ngày 26 tháng 02 năm 2021 là số tiền 79.323.230 đồng, trong đó nợ gốc 48.791.000 đồng, lãi trong hạn 14.250.000 đồng, lãi quá hạn 16.282.230 đồng và lãi phát sinh cho đến khi trả dứt nợ theo lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng. Sau ngày xét xử sơ thẩm chị Nguyễn Ngọc G còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ ý kiến trình bày và kết quả tranh luận tại phiên tòa và thông qua nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn S, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại thời điểm S khởi kiện bị đơn chị Nguyễn Ngọc G có nơi cư trú tại địa chỉ tổ 12 khu phố PH, phường PT, thị xã BL, tỉnh Bình Phước. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

Tại phiên tòa vắng mặt chị Nguyễn Ngọc G, chị Nguyễn Ngọc G đã được Tòa án tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của S, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về hình thức, nội dung và thẩm quyền ký kết Hợp đồng tín dụng đã được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, Hợp đồng tín dụng số LD 1614000436 ngày 19/5/2016 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín và chị Nguyễn Ngọc G được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 398, Điều 400, Điều 401 Bộ luật dân sự nên hợp đồng hợp pháp và có giá trị thi hành đối với các bên.

Về yêu cầu trả nợ gốc: Thực hiện hợp đồng tín dụng số LD 1614000436, Ngân hàng Thương mại Cổ phần SGTT đã giải ngân số tiền vay 100.000.000 đồng (Một trăm triệu) cho bên vay chị Nguyễn Ngọc G vào ngày 19/5/2016. Hợp đồng tín dụng LD 1614000436 quy định thời vay là 36 tháng, bên vay có nghĩa vụ thanh toán vốn gốc và lãi thành nhiều kỳ, cụ thể: kỳ hạn trả nợ hàng tháng, kỳ trả nợ đầu tiên vào ngày 30/6/2016, các kỳ trả nợ kế tiếp vào ngày 30 hàng tháng, kỳ trả nợ cuối cùng sẽ được trả vào ngày đáo hạn quy định tại hợp đồng, số tiền trả nợ mỗi kỳ 3.527.000 đồng, số tiền trả nợ kỳ cuối 3.555.000 đồng. Nhưng đến ngày 30/10/2017 chị Nguyễn Ngọc G chỉ thanh toán được số tiền vốn 51.209.000 đồng. Như vậy, chị Nguyễn Ngọc G đã vi phạm thời hạn trả nợ theo hợp đồng, nên việc S khởi yêu cầu chị Nguyễn Ngọc G có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc là 48.791.000 đồng là có cơ sở. Do đó yêu cầu khởi kiện của S được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về yêu cầu trả lãi vay: Tại Điều 5 Hợp đồng tín dụng, các bên thỏa thuận lãi suất vay là 0,75%/tháng, lãi suất thay đổi theo quy định của S. Tuy nhiên, từ khi vay cho đến ngày 30/10/2017 chị Nguyễn Ngọc G chỉ trả cho S được số tiền 12.750.000 đồng tiền lãi. Từ kỳ trả nợ ngày 30/11/2017 cho đến nay chị Nguyễn Ngọc G không tiếp tục trả lãi cho Ngân hàng. Điều này, chứng tỏ chị Nguyễn Ngọc G đã vi phạm cam kết trả lãi quy định tại Điều 5 Hợp đồng tín dụng. Như vậy, ngoài việc phải có nghĩa vụ trả tiền nợ gốc, chị Nguyễn Ngọc G còn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ lãi phát sinh cho Ngân hàng, số tiền lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (26 tháng 02 năm 2021) như sau: Số tiền lãi trong hạn 14.250.000 đồng, lãi quá hạn 16.282.230 đồng, tổng cộng tiền lãi 30.532.230 đồng.

Do đó yêu cầu khởi kiện của S được Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc chị Nguyễn Ngọc G trả cho S tiền vốn gốc 48.791.000 đồng và lãi trong hạn, lãi quá hạn tạm tính đến ngày 26 tháng 02 năm 2021 là 30.532.230 đồng, tổng cộng 79.323.230 đồng.

Kể từ ngày 27 tháng 02 năm 2021 (sau ngày xét xử sơ thẩm), chị Nguyễn Ngọc G còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 232, Điều 228, Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 463, Điều 466, Điều 398 Bộ luật dân sự; Căn cứ Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;

Áp dụng Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT.

Buộc chị Nguyễn Ngọc G có nghĩa vụ trả cho đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT số tiền nợ gốc 48.791.000 (Bốn mươi tám triệu, bảy trăm chín mươi ngàn) đồng và tiền lãi 30.532.230 (Ba mươi triệu, năm trăm ba mươi hai ngàn, hai trăm ba mươi) đồng, tổng cộng 79.323.230 (Bảy mươi chín triệu, ba trăm hai mươi ba ngàn, hai trăm ba mươi) đồng.

Kể từ ngày 27 tháng 02 năm 2021 (sau ngày xét xử sơ thẩm), chị Nguyễn Ngọc G còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng.

- Về án phí: Chị Nguyễn Ngọc G phải chịu 3.966.000 đồng án phí dân sự. Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần SGTT số tiền 1.900.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001590 ngày 12 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương và nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 03/2021/DS-ST

Số hiệu:03/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về