Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 02/2021/DS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 20-01-2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 69/2020/TLST-DS ngày 15 tháng 7 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2020/QĐXXST-DS ngày 12-11-2020, giữa:

- Nguyên đơn: Ngân hàng N; địa chỉ: Số H, đường Đ, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Lê Nguyễn Thanh U; Địa chỉ: Số N, đường H, thị trấn K, huyện G, tỉnh Gia Lai. (Theo Giấy ủy quyền số 252 ngày 08/9/2020 của Ngân hàng N – Chi nhánh huyện G Đông Gia Lai). Có mặt.

- Bị đơn: Ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T; Địa chỉ: Làng L, xã M, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngân hàng N (Ngân hàng) thông qua Chi nhánh huyện G Đông Gia Lai có cho ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T vay tiền theo Hợp đồng tín dụng số 1516/2018/HĐTD ngày 21-5-2018 như sau: Số tiền vay là 300.000.000 đồng; mục đích vay là chăm sóc 1,3 ha cà phê, chăn nuôi bò và mua sắm vật dụng sinh hoạt; thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày 21-5-2018 đến ngày 21-5-2019; lãi suất trong hạn là 10%/năm, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn; phương thức trả nợ lãi 03 tháng/lần, gốc trả cuối kỳ. Khi vay tiền, để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng nêu trên thì giữa Ngân hàng với ông T và bà T có giao kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất số 910518/HĐTC ngày 18-5-2018, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của thửa đất số 30 và 35, tờ bản đồ số 19 tại làng L, xã M, huyện G, tỉnh Gia Lai theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 163114 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp ngày 01-9-2017 cho ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T mới trả tiền lãi cho Ngân hàng đến ngày 22-8-2018 là 7.643.836 đồng, sau đó không thực hiện việc trả tiền nợ gốc và nợ lãi cho Ngân hàng như đã thỏa thuận nên đến ngày 22-5-2019 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số tiền nợ sang nợ quá hạn. Do ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T phải liên đới trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 20-01-2021 là 397.561.644 đồng, trong đó tiền nợ gốc là 300.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 22.356.164 đồng, nợ lãi quá hạn là 75.205.479 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ. Trường hợp ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T không trả hết số tiền còn nợ thì Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với tài sản thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.

2. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn là ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T đến làm việc liên quan đến vụ án nhưng ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T cố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T.

3. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập các tài liệu, chứng cứ: 02 Bảng kê tính lãi; 01 Hợp đồng tín dụng ngày 21-5- 2018; 01 Bảng theo dõi phát tiền vay và kỳ hạn trả nợ; 01 Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 18-5-2018; 01 Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 18-5-2018; 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 163114 do Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai cấp ngày 01-9-2017; 01 Giấy báo nợ đến hạn ngày 10-8-2018; 01 Thông báo chuyển nợ quá hạn ngày 22-8-2018; 01 Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh đăng ký thay đổi lần thứ 4 ngày 20-02-2017; 01 Quyết định bổ nhiệm lại cán bộ ngày 22-02-2019; 01 Quyết định ủy quyền ngày 27-12-2019; 01 Quyết định về sửa đổi, bổ sung Điều lệ ngày 18-12-2019; 01 Quyết định ban hành Điều lệ ngày 23-4-2012; 01 Điều lệ Ngân hàng N; 01 Danh sách mạng lưới chi nhánh Ngân hàng N; 01 Biên bản xác minh ngày 21-7-2020 của Tòa án; 01 Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 23-9-2020 của Tòa án; 01 Bảng thanh toán ngày 23-9-2020 của Tòa án.

4. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Hợp đồng giao kết giữa hai bên chủ thể trong đó có một bên chủ thể Ngân hàng là tổ chức tín dụng có đăng ký kinh doanh và một bên là bị đơn không có đăng ký kinh doanh nên được xác định là hợp đồng dân sự về tín dụng và pháp luật áp dụng là Bộ luật Dân sự Luật Các tổ chức tín dụng; Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không có mặt theo giấy triệu tập, không cung cấp chứng cứ nên phải chịu trách nhiệm về việc không chứng minh được và Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hợp đồng tín dụng số 1516/2018/HĐTD ngày 21-5-2018 giữa nguyên đơn với bị đơn được giao kết hợp pháp nên có hiệu lực, các bên trong hợp đồng có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Bị đơn vi phạm nghĩa vụ của bên vay theo hợp đồng đã được giao kết nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả nợ là có căn cứ theo quy định tại Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N, buộc ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T phải liên đới trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 20-01-2021 là 397.561.644 đồng, trong đó tiền nợ gốc là 300.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 22.356.164 đồng, nợ lãi quá hạn là 75.205.479 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp, Hội đồng xét xử thấy rằng giữa Ngân hàng với ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T có giao kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 910518/HĐTC ngày 18-5-2018, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của thửa đất số 30 và 35, tờ bản đồ số 19 tại làng L, xã M, huyện G, tỉnh Gia Lai theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 163114 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp ngày 01-9-2017 cho ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T. Hợp đồng nói trên có công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật nên có hiệu lực và các bên buộc phải thực hiện. Qua kết quả xem xét và thẩm định tại chỗ ngày 23-9-2020 thấy rằng, quyền sử dụng đất và tài sản trên đất không có tranh chấp. Vì vậy căn cứ vào Điều 299 của Bộ luật Dân sự, hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng.

[3] Về chi phí xem xét và thẩm định tại chỗ: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên căn cứ vào Điều 157, 158 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, buộc ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T phải liên đới hoàn trả lại cho Ngân hàng N toàn bộ số tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng.

[4] Về án phí: Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn là người có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 288, Điều 299, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng.

- Áp dụng Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 -12- 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Danh mục án phí, lệ phí tòa án Ban hành kèm theo Nghị quyết.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N.

2. Buộc ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T phải liên đới trả cho Ngân hàng N tổng số tiền nợ tính đến ngày 20-01-2021 là 397.561.644 đồng (ba trăm chín mươi bảy triệu năm trăm sáu mươi mốt nghìn sáu trăm bốn mươi bốn đồng), trong đó tiền nợ gốc là 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng), nợ lãi trong hạn là 22.356.164 đồng (hai mươi hai triệu ba trăm năm mươi sáu nghìn một trăm sáu mươi bốn đồng), nợ lãi quá hạn là 75.205.479 đồng (bảy mươi lăm triệu hai trăm không năm nghìn bốn trăm bảy mươi chín đồng) và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

3. Trong trường hợp ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T không trả đủ số tiền nợ nêu trên cho Ngân hàng N thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của thửa đất số 30 và 35, tờ bản đồ số 19 tại làng L, xã M, huyện G, tỉnh Gia Lai theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 163114 do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp ngày 01-9-2017 cho ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 910518/HĐTC ngày 18-5-2018.

4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo T thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

5. Buộc ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T phải liên đới hoàn trả lại cho Ngân hàng N toàn bộ số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

6. Về án phí: Buộc ông Vũ Đình T và bà Nguyễn Thị T phải liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 19.878.082 đồng (mười chín triệu tám trăm bảy mươi tám nghìn không trăm tám mươi hai đồng). Hoàn trả lại cho Ngân hàng N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 9.467.466 đồng (chín triệu bốn trăm sáu mươi bảy nghìn bốn trăm sáu mươi sáu đồng) theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí tòa án số 0006072 ngày 13-7-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

8. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên toà thì có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2021/DS-ST

Số hiệu:02/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về