TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 24/2022/DS-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số: 238/2021/TLST-DS, ngày 13 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp H đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:22/2022/QĐXX-ST ngày 13 tháng 6 năm 2022; quyết định hoãn phiên tòa số 26/2022/QĐST-DS ngày 08 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Phạm Văn L Địa chỉ: Thôn X, xã S, huyện M, tỉnh Đăk Nông. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Bị đơn: Bà Phạm Thị H Địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện Ml, tỉnh Đăk Nông. (vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn C Địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện M, tỉnh Đăk Nông (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn ông Phạm Văn L trong quá trình giải quyết vụ án thì:
Trong năm 2019 ông Phạm Văn C và bà Phạm Thị H có mua phân bón của gia đình ông và xác nhận nợ lại số tiền 11.430.000 đồng, hẹn đến ngày 15/12/2019 sẽ thanh toán. Tuy nhiên khi đến hạn, ông nhiều lần yêu cầu ông C, bà H phải có nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi nhưng ông C bà H cố tình trốn tránh. Do đó, ông khởi kiện yêu cầu ông C, bà H phải có nghĩa vụ thanh toán 11.430.000 đồng tiền gốc và tiền lãi tính từ ngày 16/12/2019 đến 16/11/2021 với lãi suất 1,5%/tháng là 3.943.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông L xác định chỉ có bà H là người ký xác nhận công nợ, do đó, ông L xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bà Phạm Thị H phải có nghĩa vụ thanh toán 11.430.000 đồng tiền gốc và yêu cầu tính lãi chậm trả kể từ ngày 16/12/2019 đến 16/11/2021 với mức lãi suất 10%/ năm, thời gian còn lại ông L đồng ý không tính lãi đối với bà H.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil đã tống đạt H lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà Phạm Thị H và ông Phạm Văn C tuy nhiên ông C, bà H vẫn cố tình vắng mặt, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn ông Phạm Văn L đều đã tuân thủ đúng các quy định của Pháp luật, bị đơn bà Phạm Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn C không chấp hành đúng quy định của pháp luật, không có mặt tại các buổi làm việc được Tòa án triệu tập cũng như tại phiên tòa sơ thẩm vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 430, Điều 434, Điều 440, Điều 468 BLDS; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/0/12019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn L. Buộc bà Phạm Thị H phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông Phạm Văn L số tiền 11.430.000 đồng tiền gốc và tiền lãi kể từ ngày 16/12/2019 đến 16/11/2021 theo mức lãi suất 10%/năm là 2.190.750 đồng. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015. Về án phí: buộc bị đơn phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: ông Phạm Văn L khởi kiện yêu cầu bà Phạm Thị H thanh toán tiền mua phân bón còn nợ, đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”. Bị đơn có hộ khẩu thường trú và trú tại thôn T, xã S, huyện M, tỉnh Đăk Nông. Do đó, theo quy định tại Khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil.
[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil đã tống đạt hợp lệ đối với bị đơn bà Phạm Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn C nhưng các đương sự vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự là đúng quy định tại Điều 227 BLTTDS.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Căn cứ vào các chứng cứ nguyên đơn cung cấp thể hiện:
Ngày 11/5/2019 bà Phạm Thị H xác nhận nội dung “ông bà C H nợ tiền phân chú mự Lưu Vy 11.430.000 đồng, hẹn trả 15/12/2019”. Bà H ký và viết họ tên.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành công khai chứng cứ và thông báo kết quả việc công khai chứng cứ cũng như các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà H, ông C vẫn không tham gia tố tụng, không có ý kiến cũng như cung cấp các chứng cứ chứng minh để phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Điều 91 BLTTDS quy định:
… 2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
… 4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
Do đó, Hội đồng xét xử xác định chứng cứ nguyên đơn cung cấp là hợp pháp. Nội dung và hình thức thỏa thuận mua bán tài sản của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không trái với quy định pháp luật, phù hợp với quy định tại Điều 430 BLDS nên phát sinh hiệu lực.
[2.2] Về nghĩa vụ thanh toán: Theo nội dung giấy xác nhận nợ, đến ngày 15/12/2019 bà H phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền 11.430.000 đồng cho ông L, tuy nhiên bà H không thực hiện nghĩa vụ thanh toán là vi phạm khoản 1 Điều 440 BLDS, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Do đó, việc nguyên đơn ông Phạm Văn L khởi kiện yêu cầu bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ là 11.430.000 đồng là có căn cứ, cần chấp nhận.
[2.3] Về lãi suất: Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Phạm Văn L yêu cầu bà H phải trả lãi kể từ ngày 16/12/2019 đến ngày 16/11/2021 với mức lãi suất 10% là phù H với quy định tại Điều 357 BLDS. Cụ thể: 11.430.000 đồng x 10%/năm x 01 năm 11 tháng = 2.190.750 đồng.
Đối với thời gian kể từ ngày 17/11/2021 đến ngày xét xử, ông L không yêu cầu bà H phải trả lãi. Đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, nên HĐXX chấp nhận.
[2.4] Đối với ông Phạm Văn C: Ông Phạm Văn L xác định ông C không xác nhận công nợ, nên không yêu cầu ông C phải có nghĩa vụ trả nợ nên không xem xét giải quyết.
[2.5] Về án phí Dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 BLTTDS, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án , buộc bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
[2.6] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 273 BLTTDS; Điều 430, Điều 434, Điều 440, Điều 468 BLDS; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/0/12019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn L về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” với bị đơn bà Phạm Thị H.
2. Buộc bà Phạm Thị H phải thanh toán cho ông Phạm Văn Lựu số tiền 13.620.750đ (Mười ba triệu sáu trăm hai mươi nghìn bảy trăm năm mươi đồng), trong đó có 11.430.000 đồng tiền gốc, 2.190.750 đồng tiền lãi.
3. Thời hạn thanh toán: Theo trình tự thủ tục thi hành án Dân sự.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất do các bên nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
4. Về án phí Dân sự sơ thẩm: bà Phạm Thị H phải nộp 681.000 đồng tiền án phí DSST. Trả lại cho ông Phạm Văn L 385.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000637 ngày 13/12/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
“Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 24/2022/DS-ST
Số hiệu: | 24/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 03/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về