Chào chị, đối với yêu cầu của chị, Ban biên tập gửi đến chị một số bản án sau:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.
- Trích dẫn nội dung: "Giữa Công ty dầu khí A và Doanh nghiệp Doanh nghiệp C do bà Trần Thị Mỹ C làm chủ doanh nghiệp có ký kết hợp đồng bao tiêu xăng dầu số 30/DKHG-HĐ.ĐLXD-2014 ngày 01/01/2014. Theo đó Doanh nghiệp C là đại lý bao tiêu xăng dầu, nhận và phân phối xăng dầu cho Công ty dầu khí A. Trên cơ sở hợp đồng, giữa Công ty dầu khí A và Doanh nghiệp C ký kết các văn bản thỏa thuận và các hợp đồng ký gửi với nội dung Công ty dầu khí A đồng ý cho Doanh nghiệp C mua xăng dầu trả chậm. Từ năm 2014 đến cuối năm 2016 Công ty dầu khí A đã cung cấp xăng dầu cho Doanh nghiệp C số liệu theo bản đối chiếu công nợ qua các năm. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thì Doanh nghiệp C còn nợ Công ty dầu khí A số nợ tổng cộng là 67.700.871.260 đồng, trong đó nợ gốc là 50.672.519.260 đồng và lãi là 17.028.352.000 đồng."
- Cấp xét xử: Sơ thẩm.
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
- Trích dẫn nội dung: "Ngày 15/5/2018 Công ty xăng dầu H, Chi nhánh xăng dầu L có ký kết hợp đồng mua bán xăng dầu số 313/HĐMB-BL- 2018 với Công ty Đ do bà Hoàng Thị T là Giám đốc, thời hạn hợp đồng là từ ngày 15/5/2018 đến ngày 31/12/2018, theo hợp đồng Công ty xăng dầu H, chi nhánh L cung cấp cho Công ty TNHH Thương mại và vận tải Đ sản phẩm dầu Diesel 0.001S-V và dầu mỡ nhờn tại cửa hàng số 8 và số 13 thuộc Chi nhánh xăng dầu L. Đến ngày 10/9/2018 Công ty Đ không phát sinh lấy hàng với Công ty xăng dầu H, chi nhánh L. Ngày 30/11/2018 Công ty xăng dầu H, chi nhánh L đã ký Biên bản đối chiếu công nợ với Công ty Đ, theo đó tính đến ngày 30/11/2018 Công ty Đ còn nợ tiền xăng dầu Công ty xăng dầu H, chi nhánh L là 69.979.916 đồng. Sau nhiều lần Công ty xăng dầu H, chi nhánh L có văn bản đề nghị thanh toán công nợ, trong các ngày 31/7/2019 và 30/9/2019 Công ty Đ đã thanh toán tổng số tiền là 2.000.000 đồng cho Công ty xăng dầu H, chi nhánh L. Nay, Công ty xăng dầu H khởi kiện buộc Công ty Đ phải thanh toán cho Công ty xăng dầu H tổng số tiền nợ mua hàng là 67.979.916 đồng và không yêu cầu lãi ở bất kỳ thời điểm nào kể cả sau khi bản án có hiệu lực pháp luật."
- Cấp xét xử: Sơ thẩm.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tình Đăk Lăk.
- Trích dẫn nội dung: "Giữa Doanh nghiệp TS và Công ty DN do ông Phan Văn G là giám đốc có quan hệ với nhau, ông Phan Văn G là chồng bà Phùng Thị V, ông Phùng Văn Th là anh trai bà V, do ông G có làm xe cơ giới và xây dựng nên giữa các bên có mua bán xăng dầu cho nhau, việc làm ăn giữa Doanh nghiệp TS và Công ty DN bắt đầu từ năm 2016 - 2017, do có quan hệ quen biết nên giữa Doanh nghiệp TS với Công ty DN khi mua xăng dầu không có hợp đồng. Loại dầu hai bên mua bán với nhau là dầu DO, hình thức cụ thể mua bán thỏa thuận anh G là giám đốc đã liên hệ và giao cho các tài xế xe đến lấy dầu và ký nhận vào sổ của nhân viên bán hàng, người bán hàng là ông Nguyễn Văn N, thời gian đầu các bên mua bán dầu thanh toán tiền cho nhau rất đầy đủ, nhưng đến khoảng tháng 09/2017 do vợ chồng ông G và bà V (em gái ông Phùng Văn Th) ly hôn nên việc mua bán giữa Doanh nghiệp TS và Công ty DN xảy ra trục trặc..."
- Cấp xét xử: Sơ thẩm.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Trích dẫn nội dung: “Theo Hợp đồng đại lý xăng dầu số 03/HĐĐL/2012 ngày 15/12/2011, và danh mục ngành, nghề kinh doanh tại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty CG và DNTN LA, có chủ doanh nghiệp là bà NTLA, đều có chức năng bán buôn nhiên liệu rắn, lỏng, khí và các sản phẩm liên quan nên Công ty CG giao cho DNTN LA làm Đại lý bán lẻ xăng dầu với hình thức đại lý bao tiêu hưởng thù lao đại lý các sản phẩm xăng không chì Mogas 95, Mogas 92 và Diesel 0,5%S theo tiêu chuẩn Việt Nam, thù lao đại lý được hưởng là khoản chênh lệch giữa giá bên giao đại lý bán cho bên đại lý và giá bán lẻ niêm yết tại cửa hàng của bên đại lý và được thỏa thuận theo từng thời điểm và DNTN LA có trách nhiệm thanh toán cho Công ty CG bằng hình thức chuyển khoản.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm.
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
- Trích dẫn nội dung: “Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại X và Công ty cổ phần xây dựng L ký kết với nhau về Hợp đồng mua bán hàng hóa xăng dầu. Sau khi ký kết hợp đồng Công ty X đã thực hiện đúng theo nội dung thỏa thuận về hợp đồng giao đủ hàng hóa (xăng dầu) về số lượng, chất lượng hàng hóa và giá bán cho Công ty L. Công ty L không có khiếu nại gì về chất lượng, số lượng và giá cả hàng hóa. Tuy nhiên, hai bên Công ty đã tiến hành đối chiếu công nợ vào ngày 13/12/2018, Công ty L nợ Công ty X tổng số tiền là 473.338.017 đồng, do ông Nguyễn Hồng L, giám đốc Công ty cổ phần xây dựng L ký biên bản xác nhận công nợ. Công ty X đã bán gạch hộ Công ty L được số tiền 236.953.817 đồng. Sau khi đối trừ tiền gạch, Công ty L còn nợ Công ty X số tiền 236.384.200 đồng.”