Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 156/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 156/2022/DS-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 46/2022/TLST-DS ngày 16/02/2022 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2022/QĐXXST-DS ngày 05/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa: 43/2022/QĐST-DS ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1981. Địa chỉ: ấp H, xã L, huyện G, tỉnh T.

- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của anh Nguyễn Thanh T có ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1963.

Địa chỉ: số B, đường Nguyễn H, khu phố A, phường C, thị xã G, tỉnh T Giang – Luật sư – văn phòng luật sư Phạm Thị Kim T – Đoàn luật sư tỉnh T.

*Bị đơn:

- Nguyễn Văn T, sinh năm 1963.

- Lê Thị T, sinh năm 1968.

Cùng địa chỉ: ấp T, xã B, huyện G, tỉnh T.

(Anh T có mặt, ông D có mặt, ông T vắng mặt, bà T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Thanh T trình bày:

Từ ngày 29/9/2020 anh T bắt đầu bán thức ăn và thuốc phòng trị bệnh tôm cho ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị T là người nuôi tôm.

Mỗi lần ông T, bà T mua nhận hàng đều ký nhận số lượng, chủng loại giá tiền hàng hóa vào sổ anh T để theo dõi, nếu có tiền thì trả một phần, chưa có tiền thì ngay khi kết thúc vụ tôm phải thanh toán đầy đủ, tính đến ngày 05/8/2021, sau khi kết thúc 02 vụ tôm thì ông T, bà T chốt tổng số tiền nợ là 232.040.000 đồng (hai trăm ba mươi hai triệu, không trăm bốn mươi ngàn đồng), do vụ tôm bị lỗ nên ông T, bà T xin ký nhận số tiền nợ và yêu cầu được mua hàng để nuôi vụ tiếp theo.

Từ ngày 05/8/2021 đến ngày 01/10/2021 ông Tương, bà T nợ số tiền 109.396.000 đồng (một trăm lẻ chín triệu, ba trăm chín mươi sáu ngàn đồng), tổng cộng ông T, bà T nợ số tiền là 341.436.000 đồng (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng), anh T đã đòi nhiều lần nhưng ông T, bà T không trả.

Nay anh T yêu cầu giải quyết:

- Buộc ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị T có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Thanh T số tiền còn nợ là 341.436.000 đồng (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng), trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

* Bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị T vắng mặt. Ông T, bà T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông T, bà T không đến, cũng không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn anh Nguyễn Thanh T vẫn giữ nguyên yêu cầu, anh T yêu cầu ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị T cùng có nghĩa vụ trả số tiền còn nợ là 341.436.000 đồng (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng), trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

- Ý kiến luật sư thống nhất với lời trình bày của anh T.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị T vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra cũng như tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn anh Nguyễn Thanh T yêu cầu Tòa án giải quyết: “Buộc ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị T cùng có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Thanh T số tiền mua bán còn nợ là 341.436.000 đồng (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng), trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Nên xác định quan hệ tranh chấp là: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự 2015 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện G theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị T vắng mặt, ông T, bà T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt ông T, bà T.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh T yêu cầu: ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị T cùng có nghĩa vụ trả số tiền còn nợ là 341.436.000 đồng (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng), trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở, bởi lẻ: Giữa anh Nguyễn Thanh T và ông Nguyễn Văn, bà Lê Thị T có quan hệ mua bán thức ăn chăn nuôi từ năm 2020, với hình thức mua bán là mỗi lần mua nhận hàng đều ký nhận số lượng, chủng loại giá tiền hàng hóa vào sổ của anh T để theo dõi, nếu có tiền thì trả một phần, chưa có tiền thì ngay khi kết thúc vụ tôm phải thanh toán đầy đủ, tính đến ngày 05/8/2021, sau khi kết thúc 02 vụ tôm thì chốt tổng số tiền nợ là 232.040.000 đồng, do vụ tôm bị lỗ nên ông T, bà T xin ký nhận số tiền nợ và yêu cầu được mua hàng để nuôi vụ tiếp theo.

Từ ngày 05/8/2021 đến ngày 01/10/2021 ông T, bà T nợ số tiền 109.396.000 đồng (một trăm lẻ chín triệu, ba trăm chín mươi sáu ngàn đồng), tổng cộng ông T, bà T còn nợ anh Thọ số tiền là 341.436.000 đồng, (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng), anh T đã đòi nhiều lần nhưng ông T, bà T không trả.

Do đó, có đủ cơ sở để xác định giữa anh T và ông T, bà T đã xác lập hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự năm 2015, phía ông T, bà T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên có nghĩa vụ nên cần buộc ông T, bà T có trách nhiệm trả cho anh T số tiền là 341.436.000 đồng (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng) là phù hợp với các Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015.

[4] Về tiền lãi: Ghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu ông T, bà T trả tiền lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về thời gian trả: Anh T yêu cầu ông T, bà T trả tiền ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét yêu cầu này là có cơ sở vì số tiền này ông T, bà T để kéo dài không trả cho anh T đã ảnh hưởng đến quyền lợi của anh T nên cần buộc ông T, bà T trả tiền cho anh T khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[6] Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của anh T có ý kiến lập luận: Ông T và bà T là vợ chồng. Ông T, bà T đã mua bán thức ăn với anh T từ năm 2020 nhưng không trả tiền cho anh T là đã ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của anh T. Anh T chỉ yêu cầu ông T, bà T trả số tiền nợ gốc không yêu cầu ông T, bà T trả lãi là do chổ mua bán lâu năm. Ông T là chồng đã đại diện bà T ký xác nhận nợ với anh T. Do đó yêu cầu khởi kiện của anh T là có cơ sở, phù hợp quy định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T buộc ông T, bà T cùng có nghĩa vụ trả cho anh T số tiền còn nợ là 341.436.000 đồng (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng) khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu tính lãi.

Xét ý kiến của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của anh T là có cơ sở, phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 227, 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Áp dụng Điều 430, 440 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh T.

- Buộc ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị T cùng có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Thanh T số tiền mua bán thức ăn là 341.436.000 đồng (ba trăm bốn mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi sáu ngàn đồng).

Thực hiện khi Bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về án phí:

- Ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị T phải chịu 17.071.800 đồng (mười bảy triệu không trăm bảy mươi mốt ngàn tám trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn lại cho anh Nguyễn Thanh T số tiền là 8.535.000 đồng (tám triệu năm trăm ba mươi lăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí mà anh T đã nộp theo biên lai thu số 0005979 ngày 16/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây.

Báo các đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Riêng ông Tương, bà Trinh vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 156/2022/DS-ST

Số hiệu:156/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về