Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 05/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 05/2023/DS-ST NGÀY 20/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 110/2022/TLST-DS ngày 18 tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lý Quốc Ph, sinh năm: 1986 (có mặt). Địa chỉ: Ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh T, huyện V, tỉnh Hậu Giang.

 Bị đơn:

1. Anh Nguyễn Thanh Ph, sinh năm: 1998 (vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Như Ng, sinh năm: 1980 (có mặt). Cùng địa chỉ: Ấp 9, xã Th, huyện L, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn Lý Quốc Ph trình bày:

Từ tháng 01/2022, anh Lý Quốc Ph có bán trứng vịt cho anh Nguyễn Thanh Ph 03 lần với tổng số tiền 43.600.000 đồng. Khi mua bán hai bên không có làm hợp đồng hay biên nhận. Khi bán anh Nguyễn Thanh Ph hứa sẽ chuyển khoảng trả cho anh Lý Quốc Ph. Nhưng sau khi mua xong một thời gian anh Lý Quốc Ph không thấy anh Nguyễn Thanh Ph chuyển khoảng nên anh Lý Quốc Ph có đến nhà của anh Nguyễn Thanh Ph để đòi thì anh Nguyễn Thanh Ph có viết biên nhận cho anh Lý Quốc Ph với số tiền là 43.600.000 đồng và hứa mỗi tháng trả cho tôi 6.000.000 đồng, biên nhận đề ngày 13/02/2022. Trong đó có bà Nguyễn Thị Ng (mẹ của của anh Nguyễn Thanh Ph) xác nhận. Đến ngày 12/3/2022, thì bà Ng có trả cho anh Lý Quốc Ph được 5.000.000 đồng thì ngưng trả cho đến nay.

Nay anh Lý Quốc Ph yêu cầu anh Nguyễn Thanh Ph và bà Nguyễn Thị Ng có nghĩa vụ phải trả số tiền mua trứng vịt còn nợ là 38.600.000 đồng.

Tại phiên tòa anh Lý Quốc Ph rút yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn Nguyễn Thị Ng. Anh Lý Quốc Ph chỉ yêu cầu anh Nguyễn Thanh Ph là người có nghĩa vụ phải trả số tiền mua trứng vịt còn nợ là 38.600.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Ngoài ra anh Lý Quốc Ph không yêu cầu gì thêm.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Nguyễn Thị Ng trình bày:

Trước đây anh Nguyễn Thanh Ph (con của bà Ng) có đi thu mua trứng vịt của các hộ dân sau đó bán lại. Việc kinh doanh của con bà thế nào thì bà không biết rõ. Ngày 13/02/2022, ông Lý Quốc Ph có đến nhà của con bà để đòi nợ. Do anh Nguyễn Thanh Ph không có tiền trả nợ nên viết biên nhận cho anh Lý Quốc Ph. Sau đó anh Lý Quốc Ph yêu cầu bà phải ký tên xác nhận vào biên nhận cùng con trai nên bà có ký tên vào biên nhận.

Nay ông Lý Quốc Ph yêu cầu bà và con của bà là anh Nguyễn Thanh Ph cùng có nghĩa vụ trả số tiền còn nợ là 38.600.000 đồng thì bà không đồng ý. Vì anh Nguyễn Thanh Ph đã trưởng thành và đã có gia đình riêng. Việc làm ăn mua bán giữa anh Nguyễn Thanh Ph với anh Lý Quốc Ph thì bà không biết nên bà không đồng ý trả số tiền này.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Nguyễn Thanh Ph đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tiến hành công khai chứng cứ và hoà giải và tham gia phiên toà, nhưng bị đơn Nguyễn Thanh Pho đều vắng mặt không có lý do nên không ghi nhận được ý kiến của bị đơn Nguyễn Thanh Ph.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn Lý Quốc Ph đối với bị đơn Nguyễn Thị Ng. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lý Quốc Ph đối với bị đơn Nguyễn Thanh Ph. Về án phí: Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp, bị đơn Nguyễn Thanh Ph phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Về thủ tục tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Các đương sự tranh chấp với nhau về số tiền mua bán trứng vịt chưa thanh toán. Căn cứ theo quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”. Bị đơn Nguyễn Thanh Ph có nơi cứ trú tại ấp 9, xã Th, huyện L, tỉnh Hậu Giang nên căn cứ theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

[2]. Đối với bị đơn Nguyễn Thanh Ph đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng tại phiên tòa hôm nay tiếp tục vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại các Điều 227, 228, 233 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn nhưng vẫn đảm bảo quyền, nghĩa vụ của đương sự theo quy định pháp luật.

[3]. Tại phiên tòa nguyên đơn Lý Quốc Ph rút yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn Nguyễn Thị Ng. Căn cứ theo quy định tại Điều 5, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lý Quốc Ph đối với bị đơn Nguyễn Thị Ng.

Về nội dung vụ án:

[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của anh Lý Quốc Ph, Hội đồng xét xử xét thấy:

[4.1]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ; theo lời khai của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án có cơ sở xác định: Năm 2022 anh Lý Quốc Ph và anh Nguyễn Thanh Ph có thực hiện giao dịch mua bán trứng vịt với nhau. Trong khi thực hiện việc bán hai bên không làm hợp đồng chỉ thỏa thuận bằng lời nói. Khi anh Lý Quốc Ph bán trứng vịt cho anh Nguyễn Thanh Ph thì anh Nguyễn Thanh Ph không thanh toán hết tiền cho Lý Quốc Ph mà còn nợ tiền lại. Để chứng minh cho yêu cầu của mình anh Lý Quốc Ph đã cung cấp cho Tòa án giấy nợ có nội dung “Nguyễn Thanh Ph có thiếu ông Lý Quốc Ph số tiền 43.600.000 đồng cam kết một tháng trả 6.000.000 đồng”.

[4.2]. Trong quá trình giải quyết vụ án Toà án đã triệu tập anh Nguyễn Thanh Ph nhiều lần để tiến hành công khai chứng cứ, hoà giải cũng như tham gia phiên toà nhưng anh Phong đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “…Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc…”. Do đó, tài liệu chứng cứ mà anh Lý Quốc Ph cung cấp là chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu của anh Lý Quốc Ph.

[5]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị đơn Nguyễn Thanh Ph phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 91; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 233; Điều 244; Điều 247; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 357; Điều 430, Điều 440 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

 Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lý Quốc Ph đối với bị đơn Nguyễn Thanh Ph.

2. Buộc bị đơn Nguyễn Thanh Ph có nghĩa vụ trả cho anh Lý Quốc Ph số tiền còn nợ là 38.600.000 đồng (ba mươi tám triệu sáu trăm ngàn đồng).

3. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lý Quốc Ph đối với bị đơn Nguyễn Thị Ng.

5. Về án phí:

5.1. Bị đơn Nguyễn Thanh Ph phải chịu là 1.930.000 đồng (một triệu chín trăm ba mươi ngàn đồng).

5.2. Nguyên đơn Lý Quốc Ph được nhận lại 965.000 đồng (chín trăm sáu mươi lăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lại thu tiền số 0006522 ngày 18 tháng 10 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Hậu Giang.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (20/02/2023). Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 05/2023/DS-ST

Số hiệu:05/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về