Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 296/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 296/2022/DS-PT NGÀY 15/11/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 15 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 240/2022/TLPT-DS ngày 03/10/2022 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 35/2022/DS-ST ngày 18/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện M bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 279/2022/QĐ-PT ngày 31/10/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1965 Địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Phan Văn D, sinh năm 1989 Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Ông Ôn Văn H1, sinh năm 1954 Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Dương Thị Bích T, sinh năm 1954 Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

3.2. Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh năm 1989 Địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Bến Tre.

4. Người kháng cáo: Bị đơn ông Ôn Văn H1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Từ ngày 15/6/2016 đến ngày 25/01/2017, ông Nguyễn Văn H bán thức ăn cho ông Ôn Văn H1 để nuôi heo phát triển kinh tế gia đình. Hai bên thỏa thuận khi ông H giao thức ăn thì ông H1 phải trả tiền, nếu ông H1 có nợ thì phải trả trong vòng 02 tháng. Tuy nhiên, số tiền ông H1 nợ lại liên tục tăng, ông H đã yêu cầu ông H1 thanh toán nhưng ông H1 không trả. Số lượng thức ăn đã bán cho ông H1 tổng cộng 1.329 bao hoặc thùng cùng với 13 túi tinh thể (10 túi tương đương 01 thùng tinh thể) nên tương đương 1.330 bao hoặc thùng. Đối với giá thức ăn, để dễ dàng trong việc tính toán, nguyên đơn cũng xác định giá thức ăn như giá bị đơn trình bày: Loại 701 giá 195.000 đồng/bao; loại 801 giá 224.000 đồng/bao; loại 7pro giá 590.000 đồng/bao; tinh thể giá 590.000 đồng/thùng; loại 9pro giá 249.000 đồng/bao. Tổng số tiền thức ăn ông H1 đã bán cho ông H là 310.177.000 đồng.

Đối với số thức ăn chăn nuôi ngày 18/12/2016 đã giao gồm 12 bao 701, 27 bao 801, 02 thùng MA7; số thức ăn giao ngày 21/12/2016 gồm 20 bao 701, 20 bao 801; số thức ăn ngày 25/12/2016 gồm 40 bao 701, 02 bao 7pro do sơ suất, khi giao không yêu cầu ông H1 ký nhận và ông H1 không thừa nhận nên nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, về số thức ăn này nguyên đơn không tính vào tổng số lượng thức ăn đã bán cho ông H1.

Số tiền mà ông H1 đã trả cho nguyên đơn là 190.000.000 đồng gồm: Ngày 18/10/2016 trả 100.000.000 đồng; ngày 25/12/2016 trả 40.000.000 đồng; ngày 24/01/2017 trả 50.000.000 đồng. Số tiền ông H1 và bà T còn nợ là 120.177.000 đồng. Trong đơn khởi kiện, ông H yêu cầu ông H1 và bà T liên đới trả 177.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi tuy nhiên qua đối chất để thống nhất giá, số lượng thức ăn đã bán, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu ông H1 và bà T liên đới trả cho ông H số tiền 120.177.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn cho rằng ông H phải trừ số tiền hỗ trợ tinh heo 5.000 đồng; phải trừ tiền hỗ trợ đầu bao, mỗi bao hoặc thùng sẽ hỗ trợ 5.000 đồng như lời ông H đã hứa thì ông H xác định ông không hứa hỗ trợ tiền tinh heo, tiền đầu bao cho ông H1 nên ông H không chấp nhận yêu cầu phản tố này.

Đối với yêu cầu phản tố của ông H1 cho rằng công ty đồng ý trừ đi 5.000 đồng mỗi bao hoặc thùng tiền hỗ trợ vận chuyển và đã trừ thẳng vào giá mà công ty bán cho ông H, ông H1 yêu cầu ông H trừ cho ông H1 số tiền này vì cho rằng ông H có hứa trừ ra cho ông. Về yêu cầu này, do hiện tại ông H không xác định được chính xác tên công ty, không biết được đại diện theo pháp luật là ai, công ty có quốc tịch nào vì công ty cung cấp thức ăn cho ông H, sau dịch bệnh Covid 19 đã được bán đi hiện nguyên đơn không biết được các thông tin cần thiết để cung cấp. Do vậy, đối với yêu cầu này ông H đồng ý trừ đi cho ông H1 5.000 đồng mỗi bao hoặc thùng tương đương số tiền 6.650.000 đồng.

Đối với lời trình bày của ông H1 cho rằng ông H có mượn lại thức ăn từ ông H1 để bán cho người khác và người đến chở thức ăn từ việc ông H mượn lại là con của ông H là không đúng sự thật. Hoàn toàn không có việc ông H mượn thức ăn từ ông H1, con của ông H là chị Nguyễn Thị Huỳnh N cũng không mượn thức ăn, không chở thức ăn của ông H1.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Ôn Văn H1 trình bày:

Tháng 6/2016, ông và ông Nguyễn Văn H có thỏa thuận mua bán thức ăn chăn nuôi, không lập thành văn bản, hai bên thỏa thuận mua bán thức ăn trong vòng 01 năm, trong đó ông H giao thức ăn cho ông H1 nuôi heo, đến khi bán heo thì trả một phần tiền, phần còn lại sẽ trả vào kỳ bán heo tiếp theo. Tuy nhiên, ông H bán thức ăn cho ông được 06 tháng thì ngưng không bán nữa với lý do ông H nói ông H đã hết vốn, ông cũng đồng ý và yêu cầu ông H chốt sổ nhưng ông H không thực hiện.

Trong khoảng 06 tháng mua bán thức ăn chăn nuôi với ông H thì số lượng thức ăn chăn nuôi đã mua là 1329 bao hoặc thùng cùng với 13 túi tinh thể (10 túi tương đương 01 thùng tinh thể nên tương đương 1330 bao hoặc thùng) với tổng số tiền thức ăn đã mua là 310.177.000 đồng, nhưng đã trả được cho ông H nhiều lần, cụ thể:

Ngày 18/10/2016 trả 100.000.000 đồng; ngày 25/12/2016 trả được 40.000.000 đồng; ngày 24/01/2017 trả được 50.000.000 đồng, các lần trả tiền này ông H1 đều viết vào sổ theo dõi và ông vẫn còn quản lý quyển sổ.

Ngoài ra, ông còn trả tiền cho ông H 2 lần khác, cụ thể:

Ngày 13/3/2016, ông có đưa cho ông H số tiền 30.000.000 đồng để trả trước tiền mua thức ăn vì ông H có nói là nếu đưa trước tiền thì ông H sẽ giảm 10.000 đồng mỗi bao thức ăn nên ông đồng ý. Ông H nhận tiền và viết vào một nửa tờ giấy tập học sinh dòng chữ “ngày 13 tháng 3 Chính H nhận 30.000.000 ba chục triệu” với nét chữ màu xanh. Ngày 27/3/2016, ông đưa tiếp cho ông H 40.000.000 đồng. Ông H có viết dòng chữ “ngày 27 tháng 3 400000000 Bốn chục triệu chẵn 9 H” và ông H viết vào mặt sau của nửa tờ giấy tập mà lần ngày 13/3/2016 ông H đã viết, chữ viết màu tím, ông H viết tại nhà của ông; tuy nhiên, thời gian khoảng tháng 8, tháng 9 năm 2016 ông có yêu cầu ông H đối chiếu sổ sách và giao tờ biên nhận này ra thì ông H tự ý sửa “Tháng 3” thành “Tháng 8” trong đó có ghi thêm nét bằng mực xanh vào số 3 để thành số 8. Đồng thời, đối với dòng chữ “ngày 13 tháng 3 Chính H nhận 30.000.000 ba chục triệu” ở mặt còn lại của tờ giấy thì ông H cũng sửa “tháng 3” thành “tháng 8” bằng cách thêm nét vào số 3 để thành số 8.

Trong sổ theo dõi thức ăn của ông, ông H có ghi khống thể hiện ngày 18/12/2016 và ngày 21/12/2016 ông có mua thức ăn chăn nuôi của ông H nhưng thực tế là ông không có nhận thức ăn và cũng không có ký nhận.

Ngoài ra, khi thỏa thuận mua bán thức ăn với ông H, ông H đã đưa ra giá cả cụ thể, nhưng mua được một khoảng thời gian, ông H tự ý lên giá mà không báo, cũng không viết giá cả cụ thể như thế nào vào sổ theo dõi nên ông chỉ đồng ý giá ông H đưa ra ban đầu là loại 701 giá 195.000 đồng/bao; loại 801 giá 224.000 đồng/bao; loại 7pro giá 590.000 đồng/bao; tinh thể giá 590.000 đồng/thùng; loại 9pro giá 249.000 đồng/bao.

Về yêu cầu phản tố, ông yêu cầu ông H phải trừ đi số tiền đầu bao 5.000 đồng/bao, tiền hỗ trợ tinh heo 5.000 đồng/bao. Đối với 02 khoản tiền này thì chính ông H là đại lý hứa với ông, ông H không viết văn bản giao cho ông mà ông H tự viết vào quyển sổ theo dõi của ông H. Về sổ theo dõi của ông H quản lý cũng tương tự như quyển sổ của ông, còn quyển sổ ông H nộp cho Tòa án không phải là sổ theo dõi. Về tiền hỗ trợ vận chuyển mà ông H đã từng nói với ông là công ty đã trừ đi trực tiếp vào đơn giá mỗi bao và ông H sẽ trừ ra cho ông mỗi bao 5.000 đồng. Tổng Số bao hoặc thùng thức ăn ông đã mua là 1.130 bao hoặc thùng nên ông yêu cầu ông H trừ đi cho ông số tiền 16.950.000 đồng.

Ngoài ra, ông H còn mượn của ông 24 bao 341S giá mỗi bao là 230.000 đồng/bao, trị giá 5.520.000 đồng; ngày 23/8/2016 ông H mượn lại 10 thùng tinh thể giá mỗi thùng 590.000 đồng, trị giá 5.900.000 đồng; ngày 03/9/2017 ông H tiếp tục mượn 2 bao Pro giá 590.000 đồng/bao, trị giá 1.180.000 đồng. Ông H trực tiếp hỏi mượn, ông đồng ý và con gái ông H là cô Nho chở về. Tổng trị giá số thức ăn mà ông H mượn lại là 12.600.000 đồng, ông yêu cầu ông H phải trừ đi số tiền này vào số tiền thức ăn ông có nghĩa vụ phải trả cho ông H.

Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Huỳnh N trình bày:

Chị không có mượn thức ăn từ ông Ôn Văn H1 cũng không có việc chị chở thức ăn mà cha của chị là ông Nguyễn Văn H mượn từ ông Ôn Văn H1.

Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện M đã đưa vụ án ra xét xử. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 35/2022/DS-ST ngày 18/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện M đã áp dụng các Điều 430, 440, 468 Bộ luật Dân sự; Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H.

Buộc ông Ôn Văn H1 và bà Dương Thị Bích T liên đới trả cho ông Nguyễn Văn H số tiền 120.177.000đ (Một trăm hai mươi triệu một trăm bảy mươi bảy nghìn đồng).

[2] Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Ôn Văn H1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H phải trả tiền hỗ trợ chi phí vận chuyển. Buộc ông Nguyễn Văn H phải trả cho ông Ôn Văn H1 số tiền 6.650.000đ (Sáu triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

[3] Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Ôn Văn H1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H phải trả cho ông tiền hỗ trợ tinh heo và hỗ trợ đầu bao là 11.300.000 đồng.

Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Ôn Văn H1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H phải trả giá trị thức ăn chăn nuôi mà ông cho rằng ông H đã mượn là 12.600.000 đồng.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 24/7/2022, bị đơn ông Ôn Văn H1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo: Ông H1 cho rằng ông có trả 02 khoản tiền ngày 30.000.000 đồng 13/8/2016 và 40.000.000 đồng ngày 27/3/2016 nên đề nghị cấp phúc thẩm trừ số tiền này ra cho ông. Ngoài ra, ông cũng đề nghị phải trừ cho ông số tiền thức ăn ông H đã mượn của ông 11.918.000 đồng và tiền hỗ trợ sản lượng, tiền tinh heo 13.320.000 đồng. Do cuốn sổ của ông bị ông H ghi khống, thời gian đã lâu ông không nhớ rõ nên yêu cầu ông H phải sổ gốc của ông H vì cuốn sổ đó mỗi lần nhận thức ăn ông có ký nhận và trong cuốn sổ đó có ghi rõ và có đọ sổ với cuốn sổ của ông 02 lần, ông H cung cấp cuốn sổ ra là đúng và công bằng nhất.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo, ông H1 trình bày: Quyển sổ của ông H là sổ gốc, tất cả việc giao nhận đều có ghi trong quyển sổ này, mỗi lần nhận thức ăn đều có ghi rõ và ký tên. Quyển sổ ông H giao cho Tòa án được chép từ cuốn sổ gốc của ông H. Do đó, đề nghị ông H phải đưa cuốn sổ của ông H ra để đối chiếu giữa sổ của ông H và của ông. Việc mua thức ăn từ tháng 06 nhưng ông đưa tiền vào tháng 03 là vì nếu đưa tiền trước mỗi bao thức ăn ông được chiết khấu 10.000.000 đồng. Sau khi mua bán với nhau, ông H yêu cầu ông đưa giấy biên nhận ra và ông H sửa từ tháng 03 thành tháng 08, ông H còn ghi khống số lượng thức ăn. Do việc làm ăn không rõ ràng, ông yêu cầu ông H tính tiền, khi đó ông H còn nói không còn bao nhiêu ông H bãi nợ cho ông. Đến năm 2022, ông H lại kiện ông là không phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của ông.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, trong đơn anh D trình bày: Anh xin giữ nguyên những nội dung đã trình bày tại Tòa án từ trước đến nay và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác. Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Về nội dung: Bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông Ôn Văn H1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 35/2022/DS-ST ngày 18/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét kháng cáo của ông Ôn Văn H1; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn và bị đơn đều xác định thống nhất số lượng thức ăn đã mua bán là 1.329 bao (thùng) cùng với 13 túi tinh thể (10 túi tương đương 01 thùng tinh thể), thống nhất giá thức ăn như bị đơn trình bày với tổng giá trị thức ăn chăn nuôi mà ông H1 đã mua là 310.177.000 đồng. Đồng thời, nguyên đơn thừa nhận đã nhận được tổng cộng số tiền 190.000.000 đồng, cụ thể: Ngày 18/10/2016 nhận 100.000.000 đồng, ngày 25/12/2016 nhận 40.000.000 đồng, ngày 24/01/2017 nhận 50.000.000 đồng. Đây là sự thừa nhận của các đương sự nên là tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 Bột luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Bị đơn cho rằng ngoài 03 khoản tiền như nguyên đơn trình bày, bị đơn đã có 02 lần khác đưa tiền cho nguyên đơn: Lần 1 ngày 13/3/2016, ông có đưa cho ông H số tiền 30.000.000 đồng; lần 2 ngày 27/3/2016, ông đưa tiếp cho ông H 40.000.000 đồng. Cả hai lần ông H có yêu cầu ông H1 viết vào 2 mặt của tờ giấy tập học sinh. Lần đầu ông H nhận tiền và viết nội dung “ngày 13 tháng 3 Chính H nhận 30.000.000 ba chục triệu”, lần thứ hai viết ở mặt còn lại của tờ giấy tập nội dung “ngày 27 tháng 3 400000000 Bốn chục triệu chẵn 9 H”.

Mặc dù, ông H thừa nhận nội dung được thể hiện ở 2 mặt của tờ giấy tập là do ông viết nhưng ông cho rằng không phải viết để xác định có nhận tiền từ ông H1, mà vì ông bán thức ăn chăn nuôi cho nhiều người nên việc viết giấy nhận tiền là cho những người khác, nội dung câu chữ không xác định ai là người giao tiền và giao nhằm mục đích gì. Hơn nữa, lời trình bày về vấn đề này của ông H1 có mâu thuẫn ở từng thời điểm, tại biên bản lấy lời khai và tại phiên đối chất ngày 12/7/2021, ông H1 xác định hai khoản tiền 30.000.000 đồng và 40.000.000 đồng trên là ông đưa cho ông H vào ngày 13/8/2016 và 27/8/2016. Tuy nhiên, sau đó ông H1 thay đổi lời khai cho rằng hai khoản tiền này được giao vào ngày 13/3/2016 và 27/3/2016, việc tự ý sửa số tháng 3 thành tháng 8 là do ông H tự sửa. Đồng thời, vào thời điểm tháng 3/2016 giữa ông H và ông H1 chưa có thỏa thuận mua bán và nguyên đơn không thừa nhận có thỏa thuận giảm giá 10.000 đồng/bao nếu ông H1 trả tiền trước nên không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của ông H1 về việc ông đã giao tiền cho ông H1 hai lần với tổng số tiền 70.000.000 đồng vào tháng 3/2016.

[3] Xét yêu cầu của ông H1 yêu cầu ông H phải trừ đi số tiền đầu bao 5.000 đồng/bao, tiền hỗ trợ tinh heo 5.000 đồng/bao: Ông H1 cho rằng hai khoản tiền này chính ông H đã thỏa thuận với ông nhưng qua làm việc, ông H không thừa nhận, ông H1 không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận. Trong đơn yêu cầu, ông H1 xác định hai loại hỗ trợ này được tính trên đơn vị 1.130 bao (hoặc thùng) nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu với số tiền yêu cầu hỗ trợ là 11.300.000 đồng của bị đơn.

[4] Đối với yêu cầu ông H phải trừ đi số tiền 12.600.000 đồng là giá trị của 24 bao thức ăn 341S, 10 thùng tinh thể và 2 bao Pro giá 590.000 đồng/bao mà ông H1 cho rằng ông H đã mượn của ông 3 lần vào các ngày 26/8/2016, 23/8/2016 và 03/9/2017. Do nguyên đơn không thừa nhận đã mượn thức ăn của ông H1, chị Nguyễn Thị Huỳnh N cũng không thừa nhận có chở thức ăn mà ông H mượn của ông H1, ông H1 cũng không cung cấp chứng cứ chứng minh nên không chấp nhận yêu cầu này của bị đơn.

[5] Ông H1 yêu cầu nguyên đơn ông H phải giao nộp sổ thức ăn: Trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã giao nộp chứng cứ là quyển sổ ghi thức ăn, chứng cứ này đã được công khai để các bên tiếp cận, ông H1 cho rằng quyển sổ này khác với quyển sổ gốc của ông H nhưng không có chứng cứ chứng minh. Hơn nữa, việc giao nộp chứng cứ là quyền của đương sự nên yêu cầu của ông H1 buộc ông H phải giao nộp sổ là không có căn cứ để xem xét.

Từ những nhận định trên, Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp, kháng cáo của bị đơn không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[6] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Ôn Văn H1 phải chịu án phí theo quy định. Tuy nhiên, ông H1 là người cao tuổi nên được miễn án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Ôn Văn H1;

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 35/2022/DS-ST ngày 18/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.

Áp dụng các Điều 430, 440, 468 Bộ luật Dân sự; Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H.

Buộc ông Ôn Văn H1 và bà Dương Thị Bích T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Văn H số tiền 120.177.000đ (Một trăm hai mươi triệu một trăm bảy mươi bảy nghìn đồng).

[2] Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Ôn Văn H1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H phải trả tiền hỗ trợ chi phí vận chuyển. Buộc ông Nguyễn Văn H phải trả cho ông Ôn Văn H1 số tiền 6.650.000đ (Sáu triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án), hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[3] Không chấp nhận một phần yêu cầu của ông Ôn Văn H1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H phải trả cho ông tiền hỗ trợ tinh heo và hỗ trợ đầu bao là 11.300.000 đồng.

Không chấp nhận một phần yêu cầu của ông Ôn Văn H1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H phải trả giá trị thức ăn chăn nuôi mà ông cho rằng ông H đã mượn là 12.600.000 đồng.

[4] Về án phí:

[4.1] Án phí sơ thẩm:

Ông Ôn Văn H1 và bà Dương Thị Bích T được miễn.

Buộc ông Nguyễn Văn H phải chịu 325.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với phần yêu cầu của bị đơn được chấp nhận nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 2.925.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0007509 ngày 12/5/2021 và 1.500.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0007661 ngày 11/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M. Ông H được nhận lại số tiền 4.099.500 đồng.

[4.2] Án phí phúc thẩm: Ông Ôn Văn H1 được miễn.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 296/2022/DS-PT

Số hiệu:296/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về