TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 205/2022/DS-PT NGÀY 01/06/2022 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 28/4 và ngày 01/6/2022, tại Trụ sở tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 59/2022/TLPT-DS ngày 28 tháng 02 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 75/2021/DS-ST ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 85/2022/QĐ-PT ngày 20 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Văn D, sinh năm 1983 Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Người đại diện hợp pháp của ông D: Ông Trần Đình H, sinh năm 1989. Địa chỉ: Số A, A, Phường Hòa Thuận, thành phố Cao Lãnh,tỉnh Đồng Tháp. Là người đại diện theo ủy quyền.
2. Bị đơn: 2.1 Ngô Ngọc D, sinh năm 1993 2.2 Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 Địa chỉ : Số A, tổ A, ấp 1, xã Mỹ Tân, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền là Lại Phan Xuân D, sinh năm 1985. Địa chỉ: Số A Lê Thị Riêng, khóm 2, phường 1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị D, anh T là luật sư Hồ Thị Xuân Hương, Võ Thị Thảo – Văn phòng luật sư Xuân Hương thuộc đoàn luật sư tỉnh Đồng Tháp.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyễn Thị H (mẹ ruột bà Ngô Ngọc D) Địa chỉ : Số A, tổ A, ấp 1, xã Mỹ Tân, TP Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp. (Các đương sự có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn D là ông Trần Đình H, trình bày:
Năm 2018 ông Trần Văn D bán rổ nhựa dùng để đựng xoài cho vợ chồng ông Nguyễn Văn T và bà Ngô Ngọc D. Việc mua bán ông D có ghi sổ sách, đến ngày 11/5/2019 chốt sổ thì ông T, bà D còn nợ ông D số tiền 355.715.000 đồng. Sau đó ông T và bà D có trả tiền cho ông D nhiều lần nay còn nợ lại 286.715.000 đồng. Ông D yêu cầu ông T và bà D có nghĩa vụ liên đới trả cho ông D số tiền là 286.715.000 đồng và yêu cầu tính lãi chậm trả từ ngày 05/5/2020 đến ngày 05/5/2021 với lãi suất 0,83% /tháng thành tiền là 22.818.000 đồng.
bày:
- Theo văn bản ý kiến của bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T trình Số tiền ông D yêu cầu là không hợp lý bởi vì ngày 28/8/2018 bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T có mua rổ nhựa của ông Nguyễn Lê để đóng xoài, tiền bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T đã thanh toán đủ cho ông Lê.
Đến ngày 09/02/2019 Nguyễn Lê mới nói bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T là không trực tiếp giao rổ nhựa cho bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T là Nguyễn Lê sẽ để D giao.
Ngày 11/5/2019 bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T không đóng xoài nữa và công nợ là 91.000.000 đồng, đến thời điểm ngày 20/4/2020 bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T đã trả được cho ông D tổng cộng số tiền là 59.000.000 đồng.
Nay tổng số tiền bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T còn nợ lại ông Trần Văn D là 38.000.000 đồng. Bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T đồng ý trả cho ông D trong vòng hai tháng.
Đối với yêu cầu của ông Trần Văn D thì bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T không đồng ý.
- Theo tờ tường trình của bà Nguyễn Thị Hạnh thì:
Vào mùa xoài keo bà Hạnh có cho bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T thuê vựa để đóng xoài, trong lúc thuê vựa làm thì khi bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T không có ở nhà xe rổ giao thì bà Hạnh có ký nhận dùm số lượng rổ giao trong ngày, phương thức thanh toán tiền mặt hay nợ gì bà Hạnh không biết, bà Hạnh chỉ nhận kiểm tra dùm số lượng rổ xe đã giao còn việc thanh toán tiền hay giá bao nhiêu bà Hạnh không biết và cũng không mua bán gì với ông D.
* Tại quyết định của bản án sơ thẩm số 75/2021/DS-ST ngày 27/12/2021, Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã tuyên xử:
[1] Chấp nhận yêu cầu của ông Trần Văn D yêu cầu bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T liên đới trả cho ông Trần Văn D số tiền 286.715.000 đồng và tiền lãi là 22.818.000 đồng.
[2] Buộc bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T liên đới trả cho ông Trần Văn D số tiền 286.715.000 đồng và tiền lãi là 22.818.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân năm 2015.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 15.476.500 đồng.
Chi phí giám định : Ông Nguyễn Văn T và bà Ngô Ngọc D phải chịu là 7.650.000 đồng, ông Trần Văn D đã tạm ứng và đã chi xong. Ông Nguyễn Văn T và bà Ngô Ngọc D có trách nhiệm trả lại cho ông Trần Văn D là 7.650.000 đồng.
Ông Trần Văn D được nhận lại tiền tạm ứng án phí là 7.563.000 đồng theo biên lai thu số 0004864 ngày 01/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên quyền và thời hạn kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/01/2022, bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm; ông bà chỉ thừa nhận và đồng ý trả ông D 38.000.000đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến: Xét kháng cáo của bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T là không có căn cứ; đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm; sau khi nghe ý kiến của các đương sự và quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét kháng cáo của bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T, Hội đồng xét xử xét thấy:
Phía ông Trần Văn D cho rằng từ ngày 27/8/2018 đến ngày 11/5/2019 ông có bán rổ nhựa xoài cho vợ chồng bà Ngô Ngọc D, ông Nguyễn Văn T; việc mua bán giữa hai bên không có làm văn bản hợp đồng gì mà chỉ có ông lập sổ giao hàng và hai bên tự theo dõi số lượng hàng, tiền.
Về hình thức thực hiện hợp đồng thì hai bên đương sự trình bày thống nhất nhau nhưng về thời gian thực hiện hợp đồng thì phía bị đơn lại cho rằng bị đơn chỉ mua hàng của nguyên đơn từ năm 2019, còn trước đó là năm 2018 thì bị đơn mua của ông Nguyễn Lê, tuy nhiên điều này không được phía nguyên đơn thừa nhận và căn cứ vào sổ theo dõi giao hàng của phía nguyên đơn cung cấp, có nội dung ngày đầu tiên giao hàng là ngày 27/8/2018 và ở trang cuối của sổ này có nội dung chốt nợ cũ vào ngày 10/12/2018 là “+ 302.900.000đ”, thì cho thấy lời trình bày của phía nguyên đơn cho rằng việc mua bán giữa hai bên bắt đầu từ 27/8/2018 là có căn cứ; còn việc phía bị đơn nại ra rằng năm 2018 bị đơn mua hàng của ông Nguyễn Lê nào đó là không có cơ sở do không có gì để chứng minh và như vậy cũng không liên quan đến vụ án.
Như vậy căn cứ vào nội dung chốt nợ do bị đơn Ngô Ngọc D viết và ký tên ngày 11/5/2019 ở trang cuối cùng của sổ theo dõi việc mua bán hàng hóa nói trên, thì xác định tại thời điểm ngày 11/5/2019, cũng là ngày mua bán cuối cùng mà hai bên trình bày thống nhất, thì phía bị đơn còn nợ lại nguyên đơn số tiền là 355.715.000 đồng.
Đối với nội dung bà D ký chốt nợ nói trên thì ông T nại rằng bà D chỉ ký chốt về số lượng rổ đã nhận chứ thực tế thì tại thời điểm đó vợ chồng ông chỉ còn nợ ông D 91.000.000đ. Xét thấy, lời khai nại này của ông T là không có cơ sở và phù hợp thực tế, vì nội dung chốt sổ do chị D thực hiện nói trên đã ghi cụ thể và rõ ràng là số tiền còn nợ lại đến thời điểm ngày 11/5/2019 là 355.715.000đ, chứ không có cách hiểu nào khác. Còn việc ông cho rằng thực tế tính đến tại thời điểm đó thì vợ chồng ông chỉ còn nợ lại ông D 91.000.000đ cũng không có cơ sở, vì không có gì chứng minh và ông D cũng không thừa nhận như vậy.
Như vậy, đã có căn cứ xác định tính đến tại thời điểm ngày 11/5/2019 thì phía bị đơn còn nợ tiền mua rổ của nguyên đơn là 355.715.000đ theo nội dung chốt sổ của bà D.
Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù phía bị đơn không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh về số tiền đã trả cho nguyên đơn sau thời điểm ngày 11/5/2019 ngoài việc yêu cầu và được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận thu thập sao kê tài khoản của nguyên đơn với tổng số tiền bị đơn đã trả là 69.000.000đ, là phù hợp.
Đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn đối với bị đơn chỉ với lãi suất 0,83%/tháng với thời gian từ khi khởi kiện đến ngày xét xử sơ thẩm cũng là phù hợp pháp luật và có lợi cho bị đơn.
Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải có nghĩa vụ liên đới trả cho nguyên đơn số tiền 286.715.000 đồng và tiền lãi là 22.818.000 đồng là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của bị đơn cũng không xuất trình được chứng cứ nào khác để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của các bị đơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[2] Xét tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng thực tế bị đơn chỉ bắt đầu mua bán với nguyên đơn từ năm 2019 chứ không phải năm 2018 như nguyên đơn trình bày; số tiền nợ cũ 302.900.000đ là của năm 2018 không liên quan bị đơn, cũng như không có chứng từ gốc; theo sổ sách của nguyên đơn cung cấp thì bắt đầu từ ngày 27/7/2018 nhưng có rất nhiều người ký tên nhận hàng mà nay bị đơn không thừa nhận của mình. Các vấn đề trên Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ và đề nghị Tòa án thu thập sổ phụ tài khoản của nguyên đơn từ ngày 27/8/2018 đến ngày 31/7/2019, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm theo hướng chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn với số tiền 38.000.000 đồng theo thừa nhận của bị đơn.
Hội đồng xét xử xét thấy lời trình bày và đề nghị trên của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là không có cơ sở, bởi lẽ: hai bên đương sự thừa nhận cũng như thực tế là việc mua bán rổ đựng xoài giữa hai bên chỉ được thỏa thuận miệng và thực hiện theo tập quán mua bán của địa phương, chứ không có lập văn bản hợp đồng cụ thể; việc giao nhận hàng và thanh toán đều do hai bên thương lượng, chủ động và chấp nhận với nhau, tình tiết quan trọng và quyết định trong vụ án là ngày 11/5/2019 phía bị đơn đã ký xác nhận số nợ hàng còn lại đối với nguyên đơn là 355.715.000đ thì các khoản tiền trả được trước đó không còn ý nghĩa, tức không có giá trị chứng minh gì khác, còn các khoản tiền sau đó thì có giá trị bù trừ, tức thanh toán, nên việc đề nghị làm rõ số tiền 302.900.000đ nợ cũ là xuất phát từ nguồn hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu là không cần thiết.
Đối với đề nghị làm rõ các chữ ký nhận hàng trong sổ do nguyên đơn xuất trình mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng cần phải làm rõ là chữ ký của ai, thì Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở, bởi lẽ, như nói trên việc thực hiện mua bán, giao nhận hàng giữa hai bên được thực hiện theo tập quán địa phương, không có lập văn bản, hợp đồng cụ thể để thực hiện, nên việc người thân, nhân viên, nhân công của bị đơn có mặt tại thời điểm và địa điểm người phía nguyên đơn giao hàng đến thì ai trong số họ ký nhận vào sổ của nguyên đơn là đúng thỏa thuận giữa các bên. Mặt khác, việc hiện nay giữa hai bên đã phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp nhau; bản thân phía bị đơn cũng thừa nhận hiện nay cơ sở mua bán đóng xoài của mình không còn hoạt động nữa, thì việc giả sử các chữ ký nhận hàng mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng không biết của ai, ký nhận cái gì đó, là của các nhân công của bị đơn lúc đó thì nay không thể lấy lời khai của họ hay làm rõ, đối chất, không khách quan và cũng không có giá trị chứng minh trong vụ án.
Đối với đề nghị của luật sư cho rằng cần phải thu thập sổ phụ tài khoản của nguyên đơn trong giai đoạn từ ngày 27/8/2018 đến ngày 31/7/2019 để làm rõ các giao dịch bị đơn chuyển tiền cho nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: như phân tích trên, bà D đã ký xác nhận nợ với ông D vào ngày 11/5/2019 thì các nội dung, vấn đề trước đó không cần xem xét, vì thứ nhất bà D là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhận thức được việc mình làm, là ký xác nhận nợ; việc ký xác nhận nợ không bị đe dọa, cưỡng ép... nên không thể cho rằng việc ký xác nhận nợ đó nhưng lại là không đúng sự thật; chỉ phù hợp nội dung vấn đề cần xem xét giao dịch sau ngày 11/5/2019 đến nay, là để xem từ ngày 11/5/2019 đến nay bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn được bao nhiêu, thì, phía bị đơn cho rằng việc thanh toán cuối cùng là ngày 20/4/2020 tổng cộng là 51.000.000đ bằng chuyển khoản cho nguyên đơn, nhưng phía nguyên đơn cũng đã cung cấp sổ phụ với sao kê giao dịch từ tháng 3/2019 cho đến hết tháng 5/2020 và thừa nhận số tiền bị đơn đã trả tổng cộng là 69.000.000đ là đã có lợi cho bị đơn. Vì vậy, đề nghị này của luật sư của bị đơn cũng không có cơ sở để chấp nhận.
Do đó, đề nghị của luật sư của bị đơn về việc sửa án sơ thẩm theo hướng chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn với số tiền 38.000.000 đồng theo thừa nhận của bị đơn là không không có căn cứ.
[3] Xét tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu về việc tuân thủ pháp luật từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực hiện đúng quy định của pháp luật và không có kiến nghị. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề xuất hướng giải quyết là không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị trên là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do y án sơ thẩm nên bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1, Điều 148 và khoản 1, Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 430, Điều 440 của Bộ Luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
- Không chấp nhận kháng cáo của bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T.
- Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 75/2021/DS-ST ngày 27/12/2021 của Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh.
- Chấp nhận yêu cầu của ông Trần Văn D yêu cầu bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T liên đới trả cho ông Trần Văn D số tiền 286.715.000 đồng và tiền lãi là 22.818.000 đồng.
- Buộc bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T liên đới trả cho ông Trần Văn D số tiền 286.715.000 đồng và tiền lãi là 22.818.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân năm 2015.
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Bà Ngô Ngọc D và ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 15.476.500 đồng.
+ Ông Trần Văn D được nhận lại tiền tạm ứng án phí là 7.563.000 đồng theo biên lai thu số 0004864 ngày 01/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
- Chi phí giám định: Ông Nguyễn Văn T và bà Ngô Ngọc D phải chịu là 7.650.000 đồng, ông Trần Văn D đã tạm ứng và đã chi xong. Ông Nguyễn Văn T và bà Ngô Ngọc D có trách nhiệm trả lại cho ông Trần Văn D là 7.650.000 đồng.
- Về án phí phúc thẩm: bà D và ông T mỗi người phải chịu 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ vào 600.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005423, 0005424 ngày 26/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh (đã nộp xong).
- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về hợp đồng mua bán tài sản số 205/2022/DS-PT
Số hiệu: | 205/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về