Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 3759/2022/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 3759/2022/KDTM-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 118/2022/TLST- KDTM ngày 27/6/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5273/2022/QĐXXST-KDTM ngày 02 tháng 8 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 6265/2022/QĐST-KDTM ngày 31 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty T Trụ sở: Lô CN 2, khu công nghiệp A, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Võ Văn Q, sinh năm 1991; Địa chỉ thường trú: 34 Đường số N, phường H, khu phố 5, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

(là người đại diện theo ủy quyền, theo văn bản ủy quyền số 0906/UQ-YMK ký ngày 09/6/2022 của Công ty T).

2. Bị đơn: Công ty L.

Trụ sở: 89 Đường số M, phường K, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật ông Phan Sỹ Đ, sinh năm 1990 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

(1) Nội dung nguyên đơn khởi kiện: Công ty T (gọi tắt là Công ty T) và Công ty L (gọi tắt là Công ty L) có ký kết hợp đồng số: HD-0112-2018 ngày 01/12/2018 về việc cung cấp bê tông thương phẩm tại công trình “Nhà xưởng” của Công ty L. Theo hợp đồng, phía Công ty T đã nghiêm túc thực hiện theo các yêu cầu từ Công ty L đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, đầy đủ số lượng theo yêu cầu với tổng giá trị khối lượng bê tông cung cấp theo hợp đồng là 1.152.895.000 đồng. Về nguyên tắc, Công ty L có trách nhiệm phải thanh toán đủ số tiền 1.152.895.000 đồng cho Công ty T như cam kết tại hợp đồng mà hai bên thống nhất từ ban đầu. Thế nhưng, tính đến ngày 13/7/2020 phía Công ty L chỉ thanh toán tổng số tiền là 620.000.000 đồng, số tiền chưa thanh toán còn lại là: 532.895.000 đồng. Căn cứ mục 3.3 Điều III trong hợp đồng có quy định bên B (là Công ty L) phải thanh toán ngay cho bên A (Công ty T) 100% giá trị hóa đơn trong vòng 07 đến 10 ngày kể từ khi chốt khối lượng bê tông đã cung cấp, nếu bên B thanh toán chậm hơn so với điều khoản thanh toán thì bên B phải chịu thêm phần lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất ngân hàng tại thời điểm chậm thanh toán. Công ty T đã nhiều lần yêu cầu trả nợ, nhưng phía Công ty L nhiều lần hứa hẹn nhưng không thực hiện theo đúng cam kết. Vì vậy, Công ty T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty L thanh toán một lần số tiền nợ chưa thanh toán khi mua hàng là 532.895.000 đồng và buộc trả tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tính từ ngày hai bên tiến hành đối chiếu công nợ (ngày 08/4/2020) đến ngày Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ kiện là ngày 27/9/2022, trên số dư nợ 440.990.000 đồng, theo bản đối chiếu công nợ ngày 08/4/2020 với số tiền lãi yêu cầu bị đơn phải trả là 107.730.182 đồng. Nguyên đơn không yêu cầu tính tiền lãi phát sinh đối với số dư nợ 91.905.000 đồng của hai hóa đơn sô 0000434 ngày 26/4/2020 và số 0000569 ngày 29/6/2020.

(2) Đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty L vắng mặt không có lý do khi được Tòa án triệu tập lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và vắng mặt phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất.

(3) Tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai: Đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty L vẫn tiếp tục vắng mặt mà không có lý do. Đại diện hợp pháp của nguyên đơn Công ty T có đơn đề nghị được xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Giữa Công ty T với Công ty L phát sinh tranh chấp trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh từ hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, có mã số doanh nghiệp: 0314504079 do Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh đăng ký thay đổi lần thứ 01 ngày 19/11/2019, xác định Công ty L có trụ sở đăng ký hoạt động tại địa chỉ: 89 Đường số M, phường K, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Võ Văn Q có đơn đề nghị được xét xử vắng mặt, đại diện hợp pháp của bị đơn vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3.1] Xét thấy, Hợp đồng cung cấp bê tông số HD-0112-2018 ngày 01/12/2018 được ký kết giữa Công ty T với Công ty L là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nên đã phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý ràng buộc trách nhiệm buộc các bên phải thực hiện. Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào sự thừa nhận và không phản đối của các bên đương sự, căn cứ theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử, có cơ sở xác định: Công ty L đồng ý mua, Công ty T đồng ý bán Bê tông thương phẩm đã trộn sẵn để cung cấp cho công trình “Nhà xưởng” theo yêu cầu của Công ty L, tổng giá trị khối lượng Bê tông Công ty T đã cung cấp có giá trị là 1.152.895.000 đồng, Công ty L có nghĩa vụ phải thanh toán 100% tổng giá trị khối lượng bê tông đã cung cấp, giá trị hóa đơn đã xuất cho bên mua hàng là 1.152.895.000 đồng trong thời hạn từ 07 ngày đến 10 ngày kể từ khi chốt khối lượng bê tông. Tuy nhiên, phía Công ty L thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán (nghĩa vụ trả tiền), tính đến ngày 13/7/2020 tổng số tiền của các lần thanh toán chỉ có 620.000.000 đồng, được thể hiện cụ thể văn bản, chứng từ mà nguyên đơn đã cung cấp và thừa nhận. Như vậy, số tiền mua hàng mà Công ty L còn nợ, chưa thanh toán cho Công ty T là 532.895.000 đồng, theo biên bản đối chiếu công nợ ngày 08/4/2020 và hai hóa đơn số 0000434 ngày 26/4/2020, hóa đơn số 0000569 ngày 29/6/2020. Công ty L đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán của bên mua, đó là thanh toán đầy đủ, đúng hạn, đúng phương thức thanh toán mà các bên đã thỏa thuận tại Điều III của hợp đồng, vi phạm nghĩa vụ thanh toán của bên mua được quy định tại Điều 50 của Luật thương mại năm 2005. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn thanh toán số tiền mua hàng còn nợ là 532.895.000 đồng là có cơ sở chấp nhận.

[3.2] Xét thấy, yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn Công ty L phải trả số tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là phù hợp với quy định tại Điều 306 của Luật thương mại năm 2005, mức lãi suất nguyên đơn yêu cầu áp dụng là 0,81%/tháng (0,027%/ngày) là phù hợp với quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trên số tiền chậm trả 440.990.000 đồng, tính từ ngày hai bên đối chiếu, xác nhận công nợ 08/4/2020 đến ngày Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ kiện (ngày 27/9/2022) là 902 ngày. Như vậy, số tiền lãi buộc Công ty L phải trả là 107.730.182 đồng. Từ những phân tích và nhận định trên, kết hợp với lập luận tại mục [3.1] như trên, yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là có cơ sở, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, a khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 144, Điều 147, Điều 186, Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 244, Điều 266, Điều 273, Điều 280, Điều 482 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 24, Điều 34, Điều 35, Điều 37, Điều 50, Điều 55, Điều 306 Luật thương mại năm 2005;

Căn cứ Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2005. Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Buộc Công ty L có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty T tổng số tiền là 640.625.182 đồng (trong đó tiền mua hàng còn nợ là 532.895.000 đồng và tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là 107.730.182 đồng).

Kể từ khi Công ty T có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty L, không thực hiện hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền, thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

2. Về án phí: Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm 29.625.007 đồng, buộc Công ty L phải nộp theo quy định.

Trả lại cho Công ty T số tiền tạm ứng án phí 15.009.373 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0027905 ngày 22/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

500
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 3759/2022/KDTM-ST

Số hiệu:3759/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về