Trong một nền kinh tế thị trường việc kí kết các hợp đồng cung ứng dịch vụ là thường xuyên và từ đó cũng có nhiều tranh chấp phát sinh. Dưới đây là tổng hợp 05 bản án có nội dung nêu trên, mời các bạn tham khảo:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
- Trích dẫn nội dung: “Bà D có ký với Ngân hàng S Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S). Căn cứ vào thu nhập của bà D, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 15.000.000 đồng. Mục đích vay để tiêu dùng cá nhân. lãi suất là 2,65/tháng (lãi suất trong hạn). Sau khi được cấp thẻ, bà D đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 13.500.000 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà D chưa thanh toán cho Ngân hàng.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
- Trích dẫn nội dung: “Vào ngày 04/12/2014, Công ty 72 và Công Ty PL có ký hợp đồng kinh tế số 28/2014/HĐKT với nội dung: Bên A (Công Ty PL) đồng ý giao, bên B (Công ty 72) đồng ý nhận cung cấp một số vật tư phụ, cho thuê máy, thiết bị, đà giáo ván khuôn và một số nhân công....để thi công cho Công trình cầu Kênh, thuộc dự án mở rộng Quốc lộ 1. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty 72 đã cung cấp đầy đủ dịch vụ theo yêu cầu của Công ty PL, Công ty PL đã thanh toán một phần chi phí dịch vụ và còn nợ Công ty 72 số tiền dịch vụ là 1.477.273.000 đồng. Mặc dù hai bên đã đối chiếu công nợ ngày 30/4/2016, Công ty 72 đã nhiều lần yêu cầu Công ty PL thanh toán nhưng Công ty PL vẫn chưa trả nợ.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Từ năm 2014-2016, nguyên đơn Công ty TNHH Thương mại dịch vụ P.P.S có ký kết với bị đơn Công ty CP Xây dựng C.N các hợp đồng sau: Hợp đồng vận chuyển công trình HN số 01-03/HĐVC năm 2014; Hợp đồng vận chuyển công trình Bia Mỹ (ABI) số 01-03/HĐVC năm 2014; Hợp đồng vận chuyển công trình C.M số 01-03/HĐVC năm 2014 tại tỉnh Bình Dương. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nguyên đơn đã thực hiện và hoàn thành xong nghĩa vụ vận chuyển dàn giáo các loại cho bị đơn. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2018, hai bên ký biên bản đối chiếu công nợ với số tiền còn nợ là 188.982.000 đồng, nhưng cho đến nay bị đơn vẫn không thanh toán cho nguyên đơn. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền còn nợ là 188.982.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 22/11/2016 Công ty S có gửi đơn đề nghị thanh toán có kèm theo 01 biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành, 01 hóa đơn Giá trị gia tăng, trong đó Công ty S yêu cầu Công ty X thanh toán khối lượng đá là 16.154m3 và đã xác nhận tạm ứng số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) trong thời gian thi công. Trong lúc chờ đợi Công ty S làm rõ khối lượng đá C4 thực hiện trong hai biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành cùng ngày 17/10/2016 Công ty đã trả thêm cho Công ty S 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) vào ngày 09/8/2017.Đối với hộ chiếu nổ mìn Công ty S thực hiện không đúng quy trình trong công tác sử dụng vật liệu nổ công nghiệp, tại một vị trí mà cho nổ mìn liên tiếp chênh nhau có mấy phút với khối lượng vài trăm thuốc mổ là không thực hiện được.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương
- Trích dẫn nội dung: “Công ty TNHH AC và Công ty TNHH VJP có ký kết hợp đồng và phụ lục hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ. Theo đó, Công ty TNHH AC cung cấp dịch vụ bảo vệ cho bị đơn tại hai địa điểm. Tuy nhiên, sau khi nhận được các phụ lục hợp đồng bị đơn không kí và cũng không gửi lại cho nguyên đơn. Theo đó, phí dịch vụ bị đơn phải trả hàng tháng là 39.504.000 đồng/tháng chưa bao gồm thuế VAT. Đến tháng 9/2019, các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc điều chỉnh giảm số lượng nhân viên bảo vệ và phí dịch vụ bảo vệ tại trụ sở của bị đơn xuống còn 15.801.600 đồng/tháng, chưa bao gồm thuế VAT. Tính đến ngày 31/12/2019, bị đơn còn nợ nguyên đơn tiền phí dịch vụ của hợp đồng này là 769.931.040 đồng đã bao gồm thuế VAT.”