Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 92/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 92/2022/DS-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 07 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử công khai vụ án thụ lý số 338/2021/TLST-DS, ngày 23 tháng 12 năm 2021 về việc tranh chấp “Hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95 /2022/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Ngô Văn D (tên gọi khác: Bác U), sinh năm 1962.

Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Bà Đặng Thị T(tên gọi khác: Thảo T), sinh năm 1969.

Ông Ngô Văn O, sinh năm: 1968.

Cùng địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

(Tại phiên tòa có mặt ông D. Vắng mặt bà T và ông O)

NỘI DUNG VỤ ÁN

I. Phần trình bày của nguyên đơn ông Ngô Văn D:

Tại đơn khởi kiện ngày 29/11/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn ông Ngô Văn D trình bày:

Do bà con lối xóm tin tưởng nhau nên ông có mở và làm đầu thảo nhiều dây hụi. Trong đó vợ chồng ông O và bà T góp 4 dây và vợ chồng bà T , ông O cũng có mở và làm đầu thảo hụi, ông D có góp 05 dây hụi. Nhưng khi đang thực hiện hợp đồng góp hụi thì vợ chồng ông O và bà T tuyên bố vở nợ và ngưng hụi. Không đóng hụi cho ông đối với các dây hụi do ông làm đầu thảo và cũng không giao trả tiền hụi cho ông đối với các dây hụi do vợ chồng ông O, bà T làm đầu thảo. Cụ thể như sau:

* Các dây hụi do ông D làm đầu thảo:

Dây 1: Khui ngày 02/6/2019 (al), hụi tiền, mỗi phần là 1.000.000đ, một tháng khui một lần, dây hụi có 39 phần. Vợ chồng ông O và bà T góp 02 phần. Đến kỳ khui hụi thứ 10 thì hốt. Ông giao đủ số tiền hốt hụi được là 43.620.000đ. Nhưng sau khi hốt thì sang kỳ hụi thứ 11 không đóng hụi chết. Như vậy trong dây hụi này còn nợ 29 kỳ hụi chết X 1.000.000đ/1 phần X 02 phần = 58.000.000đ.

Dây 2: Khui ngày 10/8/2019 (al), hụi tiền, mỗi phần là 1.000.000đ, một tháng khui một lần, dây hụi có 39 phần, Vợ chồng ông O và bà T góp 06 phần và góp được 10 kỳ hụi thì hốt 04 phần được 79.190.000đ. Sau khi hốt hụi thì ngưng không đóng hụi 04 dây hụi chết và 02 dây hụi sống. Sau khi hốt hụi, đóng hụi đến kỳ thứ 15, thì ngưng không đóng hụi chết và hụi sống. Như vậy trong dây hụi này còn nợ 24 kỳ hụi chết X 1.000.000đ/ 1 phần X 4 phần = 96.000.000đ. Được khấu trừ 02 dây hụi sống X 15 kỳ X 1.000.000đ = 30.000.000đ. Vậy còn nợ lại 66.000.000đ. Trong dây hụi này còn 02 phần hụi sống tiền hoa hồng là 500.000đ/1 phần X 02 phần = 1.000.000đ. Cộng chung là 67.000.000đ.

Dây 3: Khui ngày 15/01/2022 (al), hụi tiền mỗi phần là 2.000.000đ, mỗi tháng góp 1 phần dây hụi có 33 phần, ông O bà T góp 02 phần. Khi hụi khui đến kỳ thứ 6 thì hốt. Ông đã giao đủ số tiền hốt hụi được. Nhưng sau khi hốt thì ngưng. Như vậy trong dây hụi này còn nợ 27 kỳ X 2.000.000đ/1 phần X 2 phần = 108.000.000đ.

Dây 4: Khui ngày 26/4/2020 (al), hụi tiền, mỗi phần là 1.000.000đ, dây hụi có 26 phần. Vợ chồng ông O và bà T góp 1 phần và hốt vào kỳ khui hụi đầu tiên. Khi hốt hụi ông giao đủ tiền nhưng sau đó không đóng hụi chết. Vậy dây hụi này còn nợ 25.000.000đ.

Như vậy trong 04 dây hụi này ông O và bà T còn nợ ông D 257.000.000đ.

* Các dây hụi ông O và bà T làm đầu thảo:

Dây 1: Khui ngày 28/8/2019 (al) hụi tiền, mỗi phần là 2.000.000đ, mỗi tháng khui 1 lần, dây hụi có 39 phần. Ông D góp 03 phần và góp được 14 kỳ hụi sống thì ngưng hụi và không giao tiền lại cho ông. Như vậy trong dây hụi này còn nợ 03 phần hụi sống X 2.000.000đ X 14 kỳ = 84.000.000đ. Ông D chấp nhận trừ hoa hồng 1.000.000đ/1 phần X 3 phần = 3.000.000đ. Còn nợ lại 81.000.000đ.

Dây 2: Khui ngày 15/4/2020 (al) hụi tiền, mỗi phần là 2.000.000đ, mỗi tháng khui 1 lần, dây hụi có 30 phần. Ông D góp 01 phần và góp được 05 kỳ hụi sống thì ngưng hụi và không giao tiền lại cho ông. Như vậy trong dây hụi này còn nợ 01 phần hụi sống X 2.000.000đ X 05 kỳ = 10.000.000đ. Ông D chấp nhận trừ hoa hồng 1.000.000đ/1 phần X 1 phần = 1.000.000đ. Còn nợ lại 9.000.000đ.

Dây 3: Khui ngày 20/5/2019 (al) hụi tiền, mỗi phần là 2.000.000đ, mỗi tháng khui 1 lần, dây hụi có 37 phần. Ông D góp 01 phần và góp được 15 kỳ hụi sống thì ngưng hụi và không giao tiền lại cho ông. Như vậy trong dây hụi này còn nợ 01 phần hụi sống X 2.000.000đ X 15 kỳ = 30.000.000đ. Ông D chấp nhận trừ hoa hồng 1.000.000đ/1 phần X 1 phần = 1.000.000đ. Còn nợ lại 29.000.000đ.

Dây 4: Khui ngày 08/10/2019 (al) hụi tiền, mỗi phần là 1.000.000đ, mỗi tháng khui 1 lần, dây hụi có 41 phần. Ông D góp 01 phần và góp được 14 kỳ hụi sống thì ngưng hụi và không giao tiền lại cho ông. Như vậy trong dây hụi này còn nợ 01 phần hụi sống X 1.000.000đ X 14 kỳ = 14.000.000đ. Ông D chấp nhận trừ hoa hồng 500.000đ/1 phần X 1 phần = 500.000đ. Còn nợ lại 13.500.000đ.

Dây 5: Khui ngày 25/12/2018 (al) hụi tiền, mỗi phần là 2.000.000đ, mỗi tháng khui 1 lần, dây hụi có 37 phần. Ông D góp 02 phần và góp được 32 kỳ hụi sống thì ngưng hụi và không giao tiền lại cho ông. Như vậy trong dây hụi này còn nợ 02 phần hụi sống X 2.000.000đ X 32 kỳ = 128.000.000đ. Ông D chấp nhận trừ hoa hồng 1.000.000đ/1 phần X 2 phần = 2.000.000đ. Còn nợ lại 126.000.000đ.

Như vậy trong 05 dây hụi do bà T và ông O làm đầu thảo. Còn nợ ông D là 258.500.000đ.

Cộng chung tiền hụi còn nợ là: 515.500.000đ. (Năm trăn mười lăm triệu năm trăm đồng).

II. Phần trình bày của bị đơn ông Ngô Văn O và bà Đặng Thị T:

Bà Đặng Thị T (Thảo T) và ông Ngô Văn O dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu khởi kiện của ông D đòi trả tiền nợ hụi là 515.500.000đ; Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng ông O và bà T vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến về việc vắng mặt của ông bà cũng như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự:

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ông D có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng góp hụi với ông Ngô Văn O và bà Đặng Thị T. Ông O và bà T có địa chỉ tại Ấp A, xã B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

- Về việc giải quyết vụ án vắng mặt đương sự:

Bị đơn ông Ngô Văn O và bà Đặng Thị T là bị đơn trong vụ án, mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn D đòi ông O và bà T trả tiền nợ hụi là 515.500.000đ; Thông báo công khai chứng cứ và hòa giải; Kết quả công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng ông O và bà T vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến về việc vắng mặt của ông, bà cũng như yêu cầu khởi kiện của ông D. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 xét xử vắng mặt ông O và bà T rang.

[2] Về nội dung vụ án:

Nguyên đơn ông D trình bày do quen biết và là bà con lối xóm với nhau, biết vợ chồng ông O và bà T có mở và làm đầu thảo nhiều dây hụi nên ông có tham gia góp 05 dây hụi. Đồng thời ông cũng có mở và làm đầu thảo nhiều dây hụi nên vợ chồng ông O và bà T cũng có tham gia góp 04 dây hụi do ông làm đầu thảo. Khi đang thực hiện hợp đồng góp hụi thì vợ chồng ông O và bà T tuyên bố vở hụi và không đóng hụi chết cho ông đối với những dây hụi do ông làm đầu thảo và chũng không trả tiền 5 dây hụi do vợ chồng ông O và bà T làm đầu thảo. Tổng cộng hiện nay sau khi trừ hoa hồng còn nợ là 515.500.000đ. Kèm theo đơn kiện ông D cung cấp cho Tòa án sổ hụi, danh sách hụi viên và biên nhận tiền giao hụi. Còn phía ông O và bà T thì vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của ông D.

Nhận thấy ông D khởi kiện phía bà T và ông O yêu cầu trả 515.500.000đ tiền còn nợ. Ông D chứng minh bằng sổ hụi và danh sách hụi viên và biên nhận tiền của hụi viên hốt hụi được. Mặt khác theo ông D khai là khi đang tham gia hợp đồng góp hụi thì vợ chồng ông O và bà T tuyên bố vở hụi, không đóng hụi chết cho người làm đầu thảo là ông D 04 dây hụi và cũng không giao tiền hụi lại cho ông là hụi viên đối với 05 dây hụi do ông O và bà T làm đầu thảo. Còn bà T và ông O vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của ông bà, cũng như yêu cầu khởi kiện của phía ông D, cho thấy ông O và bà T từ bỏ quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đối với yêu cầu khởi kiện của ông D. Tại phiên tòa hôm nay sau khi thẩm vấn công khai nguyên đơn là ông D, đối chiếu với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là danh sách hụi viên, sổ hụi và biên nhận giao nhận tiền hụi. Theo ông D khai là các chữ ký nhận tiền trong các biên nhận này là do bà T ký lúc tham gia hợp đồng góp hụi và lúc nhận tiền hụi ông giao và sổ hụi đối với những dây hụi do bà T và ông O làm đầu thảo là do ông O và bà T lập giao cho ông khi tham gia hợp đồng góp hụi lúc ban đầu. Như vậy có đủ căn cứ xác định phía bị nguyên đơn và bị đơn có tham gia hợp đồng góp hụi như lời trình bày của nguyên đơn ông D là đúng. Nhưng khi đang thực hiện giao dịch thì phía bị đơn tuyên bố vở hụi ngưng, hiện đã lánh mặt ở cư trú nhằm không trả tiền hụi, đối với hụi đã hốt thì không đóng hụi chết, còn hụi làm đầu thảo thì không giao tiền hụi lại cho hụi viên. Như vậy có đủ căn cứ xác định phía bị đơn còn nợ nguyên đơn 515.500.000đ tiền hụi như nguyên đơn trình bày là có căn cứ phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đúng qui định pháp luật.

- Xét yêu cầu ông O và bà T liên đới trả nợ:

Nhận thấy ông O và bà T là vợ chồng, hai người này cùng mở làm đầu thảo hụi nhằm mục đích có lãi để có thêm thu nhập để phát triển kinh tế gia đình. Đồng thời hốt hụi là để có một khoảng vốn nhất định cũng để làm ăn sinh sống phát triển kinh tế gia đình. Do đó Hội đồng xét xử cần buộc vợ chồng ông O và bà T liên đới trả nợ cho ông D là phù hợp với qui định tại Điều 288 Bộ luật dân sự.

- Xét yêu cầu trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật của nguyên đơn ông D:

Nhận thấy theo ông D khai là khi góp hụi hai bên thỏa thuận: Người hụi viên phải góp hụi đầy đủ tiền hụi khi đến kỳ khui hụi và được nhận tiền hụi khi hốt hụi; Người làm đầu thảo có trách nhiệm giao đủ tiền cho hụi viên khi hụi viên hốt hụi và được hưởng tiền hoa hồng theo thỏa thuận. Như vậy khi đang thực hiện hợp đồng góp hụi thì ông O và bà T tuyên bố ngưng hụi và cũng không giao tiền hụi lại cho ông D; Đối với các dây hụi do ông D làm đầu thảo thì cũng ngưng không góp hụi chết. Cho thấy ông O và bà T là người có lỗi đã vi phạm nghĩa vụ cam kết ban đầu khi giao kết hợp đồng góp hụi. Nay ông D đòi ông O và bà T phải trả lại toàn bộ tiền hụi là có căn cứ và đúng qui định pháp luật nên được chấp nhận. Do đó Hội đồng xét xử cần buộc ông O và bà T trả toàn bộ số tiền nợ hụi còn lại là đúng qui định pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự 2015 và Nghị Định 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ.

[3] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông D, nên bị đơn ông O và bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định pháp luật. Cụ thể 515.500.000đ là 20.000.000đ + 4% số tiền vượt hơn 400.000.000đ là: 20.000.000đ + 4% X 115.500.000đ = 4.620.000đ. Cộng chung là 24.620.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 357, 468 và 471 Bộ luật dân sự.

- Căn cứ Nghị Định 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn D:

Buộc ông Ngô Văn O và bà Đặng Thị T liên đới trả cho ông D số tiền nợ của 09 dây hụi còn lại là 515.500.000 đồng (Năm trăm, mười lăm triệu, năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày ông D có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông O và bà T chậm thực hiện nghĩa vụ cấp trả nợ thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 và khoản 2, Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí: Ông O và bà T liên đới chịu 24.620.000 đồng (Hai mươi bốn triệu, sáu trăm hai mươi nghìn đồng). Hoàn lại cho ông D số tiền tạm ứng án phí là 12.463.000đ (Mười hai triệu, bốn trăm sáu mươi ba nghìn đồng) theo biên lai số 0001098 ngày 23/12/2021 của Cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông O và bà T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. Để Tòa án nhân dân tỉnh Tền Giang xét xử phúc thẩm lại vụ án.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2, Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 92/2022/DS-ST

Số hiệu:92/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về