Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 82/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BN ÁN 82/2022/DS-PT NGÀY 27/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 27 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 405/2022/TLPT-DS ngày 29 tháng 11 năm 2022 về tranh chấp “Hợp đồng góp hụi”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 162/2022/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 504/2022/QĐ-PT ngày 13 tháng 01 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyn Ánh T, sinh năm 1977 (Có mặt).

Đa chỉ: Ấp Phú Hòa, xã Phú Nhuận, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn:

1. Từ Thị H, sinh năm 1958 (Vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp Phú Hòa, xã Phú Nhuận, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Người đại diện theo ủy quyền: Võ Thị Minh Th, sinh năm 1964 (Có mặt). Địa chỉ: Tổ 3, ấp Hòa Trí, xã Long Khánh, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

(Theo văn bản ủy quyền ngày 21/02/2023) 2. Nguyễn Hùng D, sinh năm 1958 (Xin vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp Phú Hòa, xã Phú Nhuận, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn Từ Thị H, Nguyễn Hùng D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Ánh T trình bày: Bà có tham gia chơi hụi do bà H, ông D làm chủ thảo như sau:

- Dây hụi thứ 01: (ký hiệu trong danh sách chợi hụi của bà H là 28D): Hụi có lãi giá 3.000.000đồng, khui ngày 05/02/2019 (âm lịch), 03 tháng khui 01 lần, hụi có 22 phần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 1.500.000 đồng. Dây hụi này bà góp được 11 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do, ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 31.500.000 đồng.

- Dây hụi thứ 02: (ký hiệu trong danh sách chợi hụi của bà H là 19B): Hụi có lãi giá 500.000đồng, bà hốt vào ngày 15/10/2019 (âm lịch), hụi mỗi tháng khui 01 lần, bà tham gia 01 phần, tiền hoa hồng cho chủ thảo mỗi lần hụi viên hốt hụi là 250.000 đồng, dây hụi này bà góp được 24 lần hụi sống, thì bà H, ông D tuyên bố ngưng hụi với lý do, ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19, các hụi viên hốt hụi không đóng tiền hụi, bà không có tiền choàng hụi cho các hụi viên không đóng hụi. Theo thỏa thuận, sau khi trừ tiền hoa hồng cho chủ thảo dây hụi này bà H, ông D còn nợ lại số tiền góp hụi và tiền lãi là 11.750.000 đồng. Sau đó bà H, ông D trả được 8.000.000 đồng, còn thiếu lại 3.750.000 đồng.

Tng cộng 02 dây hụi bà H, ông D còn nợ bà số tiền 35.250.000 đồng. Nay bà yêu cầu bà H, ông D phải có nghĩa vụ liên đới trả số tiền 35.250.000 đồng, trả tiền 01 lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn bà Từ Thị H trình bày:

Bà thừa nhận lời trình bày của bà T là đúng sự thật. Bà T có tham gia góp hụi do bà và chồng là ông D làm chủ thảo.

Đến nay bà T đã góp tiền của dây hụi ký hiệu 28D là 22.000.000 đồng, dây hụi ký hiệu 19B bà còn nợ lại bà T là 3.750.000 đồng.

Bà thừa nhận để tạo lòng tin cho các hụi viên khi rủ họ tham gia chơi các dây hụi do bà làm chủ thảo, bà có thỏa thuận là sẽ: “cam kết chịu trách nhiệm đi gom tiền của các hụi viên chưa hốt hụi (hụi sống) và choàng tiền hụi cho các hụi viên chậm góp hụi (hụi chết) nếu những người này chậm thực hiện nghĩa vụ đóng hụi để giao tiền cho hụi viên hốt hụi và nhận tiền hoa hồng của dây hụi theo thỏa thuận” nhưng đến nay không thực hiện được cam kết này là do một phần ảnh hưởng do dịch bệnh Covid-19, quá nhiều các hụi viện đã hốt hụi không góp lại tiền hụi chết theo thỏa thuận nên bà không còn khả năng choàng hụi, dẫn đến phải ngưng hụi nên vợ chồng bà xin trả lại số tiền đã góp hụi cho bà T là 25.750.000 đồng, xin trả dần mỗi tháng 1.000.0000 đồng cho đết khi hết nợ.

Bị đơn ông Nguyễn Hùng D trình bày: Ông thừa nhận vợ chồng ông, bà còn nợ bà T số tiền góp hụi là 25.750.000 đồng, xin trả dần mỗi tháng 1.000.0000 đồng cho đết khi hết nợ.

Tại Bản án dân sơ thẩm số 162/2022/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang áp dụng khon 3 Điều 26, Điều 226, 227 của B lut T tng dân sự; các Điều 280, 288, 471 và khoản 2 Điều 468 của B lut Dân s năm 2015; Điều 23 của Nghị đnh s 19/2019/NĐ- CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Ngh quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ánh T.

Buộc bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Ánh T số tiền 35.250.000 đồng, ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 13/9/2022, bị đơn Từ Thị H, Nguyễn Hùng D có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc giải quyết bao gồm: Bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D kháng cáo toàn bộ bản án số 162/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, bà H, ông D chỉ đồng ý trả số tiền là 25.750.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm: về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến khi xét xử Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng chấp hành đúng nội quy phòng xử án và thực hiện quyền, nghĩa vụ đúng pháp luật; Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà H, ông D về việc đồng ý trả vốn, về tính lãi đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Nghị định 19 của Chính phủ để tính lại lãi suất.

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp “Hợp đồng góp hụi” là có căn cứ và phù hợp.

Bị đơn ông Nguyễn Hùng D có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự xử vắng mặt đối với ông D.

[2] Về nội dung vụ án: Bà Nguyễn Ánh T và bà Từ Thị H, ông Nguyễn Hùng D cùng thống nhất trình bày: Bà T có tham gia chơi hụi do bà H và ông D làm chủ cụ thể như sau:

Dây hụi thứ 1: Hụi 3.000.000 đồng khui ngày 05/02/2019 âl, hụi 03 tháng khui một lần (dây hụi này được bà H ký hiệu là 28D). Hụi gồm 22 phần, bà T tham gia một phần và đóng được 11 kỳ thì hụi bể, bà T đóng được số tiền vốn là 22.000.000 đồng. Bà T yêu cầu ông D, bà H trả theo hụi mãn với số tiền là 33.000.000 đồng, bà trừ tiền hoa hồng cho bà H, ông D 1.500.000 đồng còn lại 31.500.000 đồng.

Dây hụi thứ 2: Hụi 500.000đồng khui ngày 15/10/2019 âl (dây hụi nảy được bà H ký hiệu là 19B), hụi mỗi tháng khui một lần, gồm 25 phần bà T tham gia một phần và đóng được 24 lần, bà T hốt hụi mãn. Sau khi trừ hoa hồng số tiền bà T hốt được là 11.750.000 đồng nhưng bà H, ông D chỉ trả được 8.000.000 đồng, còn nợ lại 3.750.000 đồng.

Án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T buộc bà H, ông D có nghĩa vụ liên đới trả cho bà T số tiền nợ hụi là 35.250.000 đồng. Ông D, bà H không đồng ý kháng cáo xin được trả vốn.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo và nội dung kháng cáo của bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[3.1] Bà Nguyễn Ánh T, bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D đều thống nhất dây hụi 3.000.000 đồng khui ngày 05/02/2019 âl bà H và ông D không duy trì đến mãn mà hụi này bị bể do một số hụi viên sau khi hốt hụi không thực hiện nghĩa vụ đóng lại hụi chết. Trong dây hụi này bà T đóng được 11 kỳ, bà T, bà H và ông D thống nhất mỗi kỳ tiền lãi là 1.000.000 đồng, lời trình bày này của các đương sự phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án (BL 05B). Như vậy số tiền bà T thực đóng cho bà H, ông D là 22.000.000 đồng. Án sơ thẩm nhận định hụi có lãi và buộc bà H, ông D trả cho bà T theo hụi mãn là chưa phù hợp mà cần căn cứ vào khoản 1 điều 21 Nghị định số 19/2019/NQ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường để tính lãi trên số tiền vốn mà bà T đã góp cho bà H, ông D theo từng thời gian đến ngày xét xử sơ thẩm với lãi suất 1,66%/tháng. Tổng số tiền lãi được tính của dây hụi này là 9.064.550 đồng. Tổng cộng tiền vốn và lãi bà H, ông D có nghĩa vụ trả cho bà T trong dây hụi này là 31.064.550 đồng.

[3.2] Đối với dây hụi 500.000 đồng, khui ngày 15/10/2019 âl, bà T, bà H, ông D thống nhất số tiền bà T hốt khi hụi mãn sau khi trừ hoa hồng là 11.750.000 đồng, sau đó bà H, ông D đã trả được 8.000.000 đồng, hiện còn nợ lại 3.750.000 đồng là có căn cứ và phù hợp. Tại tòa hôm nay bà T không yêu cầu tính lãi của số tiền này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Như vậy, tổng số tiền của hai dây hụi bà H và ông D có nghĩa vụ trả cho bà T là 34.814.550 đồng.

[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bà H, ông D là có cơ sở một phần, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà H, ông D, sửa một phần bản án sơ thẩm.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà H, ông D là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật. Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ khoản 1 điều 309, khoản 2 điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ điều 471 Bộ luật dân sự; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 162/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ánh T.

Buộc bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Ánh T số tiền là 34.814.550 đồng, thời gian thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí: Miễn tiền án phí cho ông Nguyễn Hùng D và bà Từ Thị H. Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bà T đã nộp 918.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0016528 ngày 01/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, còn hoàn lại cho bà T số tiền là 618.000 đồng.

Kể từ ngày bà Nguyễn Ánh T yêu cầu thi hành án, nếu bà Từ Thị H và ông Nguyễn Hùng D chậm thi hành khoản tiền trên thì còn phải chịu thêm khoản lãi tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án, lãi suất phát sinh do chậm thi hành án được xác định theo khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự; thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

104
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 82/2022/DS-PT

Số hiệu:82/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về