TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO - TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 244/2021/DS-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 03 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 168/2021/TLST-DS ngày 07 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2021/QĐXX-ST ngày 09 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Võ Thị Mỹ L, sinh năm 1987; Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Chị Huỳnh Hoàng P, sinh năm 1985 (xin vắng mặt).
Địa chỉ: Số 117/9 Hoàng V, Phường 5, thành phố X, tỉnh Tiền Giang.
(Theo văn bản ủy quyền ngày 02/6/2021)
Bị đơn: Chị Phan Phạm Thái Hồng C (Tên thường gọi A), sinh năm 1973 (xin vắng mặt);
Anh Đỗ Kim M, sinh năm 1971 (xin vắng mặt).
Cùng địa chỉ: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, Bản tự khai đề ngày 31/5/2021 của nguyên đơn Võ Thị Mỹ L và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, đại diện ủy quyền của nguyên đơn là chị Huỳnh Hoàng P trình bày:
Bà Võ Thị Mỹ L là hụi viên do bà Phan Phạm Thái Hồng C (Tên thường gọi là A) làm đầu thảo. Bà L tham gia hai dây hụi của bà C như sau:
Dây hụi 2.000.000đồng, khởi hụi ngày 25/11/2017, dây hụi này có 21 phần, bà L tham gia 01 phần, mỗi tháng khui 1 lần. Hụi đóng hết kỳ thứ 20 thì ngừng. Tổng cộng dây hụi này bà C còn nợ bà L số tiền là 1.600.000đồng x 20 phần = 32.000.000đồng.
Dây hụi 500.000đồng, khởi hụi tháng 01/2019, dây hụi có phần và bà L tham gia 01 phần, mỗi tháng khui 1 lần, hụi đóng đến hết kỳ thứ 6 thì ngừng. Tổng cộng dây hụi này bà C còn nợ bà L số tiền là 400.000đồng x 6 phần = 2.400.000đồng.
Tổng cộng số tiền trong 02 dây hụi mà bà C thiếu bà L là 34.400.000đồng.
Sau đó bà C trả được 10.400.000đồng, còn nợ lại số tiền 24.000.000đồng.
Trong thời gian bà C làm chủ hụi nhiều năm, chồng của bà C là ông Đỗ Kim M đều biết việc thu góp hụi. Đồng thời ông M không có đi làm, mọi thu nhập của bà C là dùng vào việc chung của gia đình , ông M cũng biết việc bà C làm chủ hụi nên trách nhiệm này là trách nhiệm liên đới của hai vợ chồng. Do không thỏa thuận được với bà C về việc thanh toán tiền hụi nên bà L khởi kiện yêu cầu như sau: yêu cầu chị Phan Phạm Thái Hồng C (A) và chồng là anh Đỗ Kim M có trách nhiệm liên đới trả cho chị L tổng số tiền hụi còn nợ là 24.000.000đồng. Yêu cầu trả khi án có hiệu lực pháp luật.
Tại biên bản hòa giải ngày 09/11/2021, bị đơn Phan Phạm Thái Hồng C trình bày:
Tôi thừa nhận còn nợ bà Võ Thị L số tiền hụi là 24.000.000đồng như chị Huỳnh Hoàng P là đại diện theo ủy quyền của bà L vừa trình bày. Tôi đồng ý trả cho bà L số tiền 24.000.000đồng. Tuy nhiên do hoàn cảnh kinh tế gia đình hiện tại quá khó khăn, nên xin khi nào có tiền tôi sẽ trả cho bà L. Việc tôi làm chủ hụi, chồng tôi là anh Đỗ Kim M không biết, đến khi vỡ hụi mới biết. Kinh tế gia đình hai vợ chồng cùng lo, ai có tiền thì người đó lo. Tiền lời hụi để chàng hụi và trả lãi cho các khoản nợ tôi vay.
Tại Bản tự khai, anh Đỗ Kim M trình bày: Tôi là chồng của chị C, việc chị C làm chủ hụi không liên quan đến tôi vì tôi không giao, nhận, góp hụi ai hết, nay hụi viên kêu tôi phải trả nợ cùng chị C, tôi hoàn toàn không biết, nợ của chị C thì chị C tự trả một mình, bây giờ tôi không còn nhà ở, phải ở trọ thì tôi không có khả năng trả nợ cùng chị C.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung giải quyết vụ án Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Võ Thị Mỹ L về việc yêu cầu bị đơn Phan Phạm Thái Hồng C và Đỗ Kim M trả số tiền hụi 24.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ lời trình bày của đại diện ủy quyền của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ L khởi kiện yêu cầu chị Phan Phạm Thái Hồng C và anh Đỗ Kim M trả số tiền hụi còn nợ 24.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại địa phương nên thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện R theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét người đại diện ủy quyền của nguyên đơn là chị Huỳnh Hoàng P và bị đơn chị Phan Phạm Thái Hồng C, anh Đỗ Kim M có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt chị P, chị C, anh M.
[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Mỹ L khởi kiện yêu cầu chị Phan Phạm Thái Hồng C và anh Đỗ Kim M trả số tiền hụi còn nợ 24.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Chị L và chị C đều thống nhất việc chị L có tham gia chơi dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, dây hụi này có 21 phần, chị L đã đóng được 20 kỳ, mỗi kỳ 1.600.000 đồng với số tiền 32.000.000 đồng và dây hụi 500.000 đồng/tháng, chị L đã đóng được 06 kỳ, mỗi kỳ 400.000 đồng với số tiền 2.400.000 đồng. Tổng cộng số tiền trong 02 dây hụi mà chị L đã đóng cho chị C là 34.400.000đồng. Sau đó chị C có trả cho chị L số tiền 10.400.000đồng, còn nợ lại số tiền 24.000.000đồng. Tuy thừa nhận còn nợ và đồng ý trả cho chị L 24.000.000đồng , nhưng chị C cho rằng hiện hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên xin khi nào có tiền sẽ trả cho chị L, phía chị L không đồng ý.
Do đó, Hội đồng xét xử xác định chị C còn nợ chị L số tiền hụi là 24.000.000 đồng, buộc C có nghĩa vụ trả cho chị L số tiền 24.000.000 đồng.
[3.2] Xét yêu cầu của chị L về việc yêu cầu anh M liên đới cùng chị C trả số tiền hụi 24.000.000 đồng cho chị L: Chị L cho rằng trong thời gian chị C làm chủ hụi nhiều năm, chồng của chị C là ông Đỗ Kim M đều biết việc thu góp hụi. Đồng thời anh M không có đi làm, mọi thu nhập của bà C là dùng vào việc chung của gia đình, anh M cũng biết việc bà C làm chủ hụi nên trách nhiệm này là trách nhiệm liên đới của hai vợ chồng; Phía chị C cho rằng việc chị làm chủ hụi, chồng chị là anh Đỗ Kim M không biết, đến khi vỡ hụi mới biết, tuy nhiên kinh tế gia đình hai vợ chồng cùng lo, ai có tiền thì người đó lo, tiền lời hụi để chàng hụi và trả lãi cho các khoản nợ vay. Tại Biên bản xác minh ngày 11/02/2020, ông Phan Chí H – Trưởng ấp T, xã B, huyện C cho biết: Chị C làm hụi từ nhiều năm, nhưng không nhớ chính xác năm nào. Trong quá trình tham gia hụi, chị C là người trực tiếp giao nhận hụi với các hụi viên, anh M là chồng chị C không trực tiếp chơi hụi nhưng thỉnh thoảng hụi viên có đến nhà đóng tiền hụi cho chị C thì anh M có nhận tiền hụi dùm của hụi viên để về chuyển cho chị C. Lúc chị C tham gia làm hụi thì chị C có mở quán tạp hóa và anh M chăn nuôi heo, bò tại nhà, nguồn thu nhập chính của chị C và anh M là từ bán quán và chăn nuôi, chơi hụi chỉ là một phần thu nhập thêm. Qua đó, cho thấy việc anh M cho rằng việc chị C chơi hụi anh không biết là không có cơ sở.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, buộc anh Đỗ Kim M liên đới cùng chị C trả cho chị L số tiền 24.000.000 đồng.
[3.3] Về thời gian trả tiền: Chị L yêu cầu chị C, anh M trả số tiền hụi 24.000.000 đồng khi án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở. Hiện chị C, anh M đã vỡ vụi và nợ tiền của chị L quá lâu làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị L nên Hội đồng xét xử buộc chị C, anh M có nghĩa vụ trả cho chị L số tiền 24.000.000 đồng khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của chị L được Tòa án chấp nhận nên chị C, anh M phải chịu án phí theo quy định.
[6] Xét ý kiến và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định pháp luật tố tụng và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 228, Điều 229, của Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Điều 357, Điều 471, Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Căn cứ vào Điều 27 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 về họ, hụi, biêu, phường.
Căn cứ vào Điều 29 của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 về họ, hụi, biêu, phường.
Căn cứ Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Mỹ L.
Buộc chị Phan Phạm Thái Hồng C (tên thường gọi là A) và anh Đỗ Kim M có nghĩa vụ trả cho chị Võ Thị Mỹ L số tiền 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng). Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày chị Võ Thị Mỹ L có đơn yêu cầu thi hành án nếu Phan Phạm Thái Hồng C (tên thường gọi là A) và anh Đỗ Kim M không trả số tiền trên thì hàng tháng chị C, anh M phải trả lãi tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Về án phí: Chị Phan Phạm Thái Hồng C (tên thường gọi là A) và anh Đỗ Kim M phải liên đới chịu 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn lại cho chị Võ Thị Mỹ L 600.000đồng (Sáu trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004942 ngày 02/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết theo quy định.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 244/2021/DS-ST
Số hiệu: | 244/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 03/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về