Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 21/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 21/2024/DS-PT NGÀY 25/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 19 tháng 4 năm 2024 (tuyên án ngày 25 tháng 4 năm 2024), tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 07/2024/TLPT-DS ngày 25 tháng 01 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ có kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐ-PT ngày 04 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐ-PT ngày 21 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1988;

Bà Nguyễn Diễm H1, sinh năm 1994;

Đều ở địa chỉ: Khu T, xã P, huyện L, tỉnh Phú Thọ (ông H và bà H1 vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của ông H và bà H1 là:

1. Bà Vũ Thị H2, sinh năm 1974 (Có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

2. Ông Đặng Anh S, sinh năm 1974 (Có mặt).

Địa chỉ: Phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

3. Ông Nguyễn Việt D, sinh năm 1997 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Xã H, huyện P, tỉnh Phú Thọ.

4. Bà Phan Thị Thu P, sinh năm 1999 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Xã P, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

5. Bà Hán Thị Thu P1, sinh năm 1996 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Xã P, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

2. Bị đơn: Công ty cổ phần T6.

Địa chỉ: Số A, đường L, phường T, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Đại T - Chức vụ: Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thiên T1 - Giám đốc chi nhánh P2 - Công ty cổ phần T6; Địa chỉ: Khu H, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ (Có đơn xin vắng mặt).

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Chử Đức C, sinh năm 1987 (Có đơn xin vắng mặt).

3.2. Bà Dương Thị H3, sinh năm 1997 (Có đơn xin vắng mặt).

Đều HKTT: Khu A, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay: Khu D, xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

3.3. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Địa chỉ: Thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

Người đại diện theo pháp luật: Chi cục trưởng - Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Anh T2 - Chức vụ: Phó Chi cục trưởng - Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao (Có đơn xin vắng mặt).

3.4. Ông Hà Xuân S1 - Chấp hành viên - Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao (Có đơn xin vắng mặt).

Nơi công tác: Thị trấn L, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

3.5. Bà Bùi Vũ H4, sinh năm 1982 (Có đơn xin vắng mặt).

3.6. Bà Nguyễn Thị H5, sinh năm 1983 (Có đơn xin vắng mặt).

Đều địa chỉ: Khu I, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

Người kháng cáo: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Vũ Thị H2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện, các lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của anh H, chị H1 trình bày:

Ngày 22/8/2018, bà Dương Thị H3, sinh năm 1997, địa chỉ: Khu A, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ đã đặt cọc với Công ty cổ phần T6 (sau đây gọi tắt là CT Sông Hồng) số tiền là 500.000.000đ để được mua 02 ô đất I22 và I23 thuộc dãy LK09 (hiện nay được điều chỉnh quy hoạch là ô K06 và K07 thuộc dãy LK10), tổng diện tích là 200m2. Sau khi đặt cọc cho CT Sông H3, vợ chồng bà H3 đã xây dựng 01 ngôi nhà trên thửa đất này.

Ngày 10/9/2018, bà Dương Thị H3 cùng chồng là ông Chử Đức C, sinh năm 1989 đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên lô đất LK09 - I22 và I23 cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H1 với số tiền là 900.000.000đ theo Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày 10/9/2018.

Nội dung giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà H3 với vợ chồng ông H, bà H1 như sau: “Nay không có nhu cầu sử dụng gia đình có chuyển nhượng lại cho anh Nguyễn Hữu H và chị Nguyễn Diễm H1 khu 6 xã S - Lâm thao - Phú Thọ số tiền là 900.000.000đ (chín trăm triệu đồng)”.

Ngày 06/3/2020, vợ chồng ông Chử Đức C và bà Dương Thị H3 đã ký Văn bản cam kết thanh toán tiền với vợ chồng ông H, bà H1. Nội dung cụ thể như sau: “Mọi thủ tục làm việc với CT Sông Hồng để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H1. Kể từ ngày ký kết văn bản này Ông Chử Đức C và bà Dương Thị H3 phải có trách nhiệm ký kết và thông báo với CT Sông Hồng về việc đã chuyển nhượng phần diện tích đất nêu trên để CT Sông H3 làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất mang tên Ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H1...”.

Ngày 12/3/2020, ông H, bà H1 đã đến CT Sông H để làm lại hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ vợ chồng ông C, bà H3 sang cho mình, ông H, bà H1 đã xuất trình cho CT Sông Hồng giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày 10/9/2018 và văn bản cam kết thanh toán tiền ngày 06/3/2020 với vợ chồng ông C, bà H3 đề làm căn cứ chứng minh việc ông C, bà H3 đã chuyển nhượng quyền sử dụng 02 lô đất LK10: K06 và K07 cho vợ chồng ông H, bà H1.

CT Sông H6 đã căn cứ vào 02 văn bản trên và chấp thuận việc chuyển đổi giữa vợ chồng ông C, bà H6 và ông H, bà H1, đồng thời cho ông H, bà H1 thực hiện việc nộp các khoản tiền cho Công ty. Công ty đã thu tiền đặt cọc lô đất, phí chuyển nhượng và phí công chứng làm bìa đỏ đối với 02 lô đất LK10: K06 và K07 của vợ chồng ông H.

Cụ thể như sau: Vợ chồng ông H, bà H1 đã nộp cho CT Sông H số tiền là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng). Thể hiện tại phiếu thu số 01387, quyển số 48. Lý do nộp: “Thu lại PT589 ngày 22/8/18 500 triệu và PT952 ngày 13/1/19 100 triệu; đặt cọc lô LK10: K06; K07.” Nộp 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng), lý do nộp: “Phí chuyển nhượng đất lô LK10 - K06; K07.” Và nộp 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng), lý do nộp: “Phí công chứng làm bìa đỏ đất lô LK10 - K06; K07.” Kể từ khi vợ chồng ông H, bà H1 nộp đầy đủ số tiền trên, đã nhiều lần liên hệ với CT Sông H6 nhưng C2 không giải quyết để làm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thực hiện việc bàn giao đất và tài sản trên lô đất LK10 - K06; K07 cho vợ chồng ông bà. Đến nay, vợ chồng ông H, bà H1 chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với thửa đất này.

Việc CT Sông H6 chưa thực hiện việc chuyển nhượng để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông H, bà H1 là xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông bà được pháp luật bảo hộ.

Các căn cứ pháp lý để CT Sông Hồng thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất cho ông H, bà H1 như sau:

Thứ nhất: CT Sông H6 đã nhận đủ số tiền cọc lô đất LK10: K06; K07 là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng); phí chuyển nhượng lô đất LK10: K06; K07 là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) và phí công chứng làm bìa đỏ lô đất LK10: K06; K07 là 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) từ ông H, bà H1. (Thể hiện trong các Phiếu thu ngày 12/3/2020 của C2).

Như vậy, dù ông H, bà H1 và CT Sông H6 chưa chính thức ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng Công ty đã chấp thuận việc cho ông H, bà H1 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng 02 lô đất LK10: K06; K07 thì mới nhận tiền của ông H, bà H1 với tổng số tiền là 606.600.000 đồng (Sáu trăm linh sáu triệu sáu trăm nghìn đồng) gồm các khoản trong đó có khoản phí công chứng làm bìa đỏ.

Thứ hai: Căn cứ tại Khoản 2 Điều 168 Luật đất đai 2013 quy định về Thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất như sau:

“...Thời điểm người thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc cho thuê; chuyển nhượng quyền sử dụng đất đồng thời chuyển nhượng toàn bộ dự án đối với dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê sau khi có Giấy chứng nhận và có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 194 của Luật này.” Khoản 1 Điều 194 Luật đất đai 2013 quy định về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thực hiện dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở; dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê như sau:

“1. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quy định của Chính phủ về điều kiện loại đô thị để cho phép chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô sau khi đã hoàn thành đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và nghĩa vụ tài chính về đất đai;

b) Đối với các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở thì được chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án khi đã có Giấy chứng nhận. Người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải thực hiện dự án đầu tư đúng theo tiến độ đã được phê duyệt.” Ngày 19/6/2018, CT Sông Hồng đã được UBND tỉnh P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CO 279023 đối với thửa đất số 1073, tờ bản đồ số 24, diện tích 1.618 m2 là đất ở nông thôn.

Theo quy hoạch của dự án xây dựng khu dân cư nông thôn mới xã T thửa đất đã được chia thành nhiều ô, dãy, trong đó có ô số I22 và I23 thuộc dãy LK09, mỗi ô có diện tích 100 m2. Hai ô đất này bà Dương Thị H3 đã đặt cọc với CT Sông Hồng, sau đó chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông H, bà H1. Vợ chồng ông H, bà H1 đã thực hiện nộp tiền và các khoản lệ phí cho Công ty Đ.

Như vậy ông H, bà H1 đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với 02 ô đất số LK10: K06; K07. CT Sông H6 phải có trách nhiệm hoàn thiện hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông H, bà H1 và bàn giao lại đất và tài sản trên thửa đất LK10: K06; K07 cho ông H, bà H1.

Từ các căn cứ phân tích viện dẫn nêu trên, C2 có trách nhiệm thực hiện các thủ tục theo quy định pháp luật để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông H, bà H1 đối với hai ô đất LK10: K06 và K07.

Vậy để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông H, bà H1 theo quy định pháp luật. Nay ông H, bà H1 đề nghị Tòa án giải quyết buộc CT Sông Hồng thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật và bàn giao cho vợ chồng ông bà ô đất LK10 - K06; K07 (là thửa đất số 1350 và thửa đất 1351 theo bản đồ địa chính).

Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của ông H, bà H1 là bà H2 đề nghị Tòa án bác yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 - Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao. Trường hợp Tòa án tuyên 03 Hợp đồng vô hiệu thì đề nghị giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu và yêu cầu ông C, bà H6 bồi thường cho ông H, bà H1 số tiền cụ thể là 1.100.000.000đ. Yêu cầu CT Sông H6 phải bồi thường cho ông H, bà H1 số tiền 2.000.000.000đ và trả lại số tiền 6.600.000đ theo 2 phiếu thu tiền phí chuyển nhượng đất phí công chứng.

Ý kiến của bị đơn:

Các lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của CT Sông Hồng ông Nguyễn Thiên T1 trình bày:

CT Sông H6 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu công ty thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với ô đất LK10-K06; K07 cho nguyên đơn. Cụ thể như sau:

CT Sông H6 được giao làm chủ đầu tư dự án Khu dân cư nông thôn mới tại xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Việc mua bán lô đất diễn ra như sau: Ngày 16/11/2017, Công ty đã nhận đặt cọc của ông Bùi Việt L 100.000.000 đồng để chuyển nhượng 2 lô đất (LK09: I22, I23 nay là lô đất số LK10: K06 = 100m2; K07 = 100m2 thửa số 1350, 1351, tờ bản đồ số 24) với giá là 600.000.000 đồng. Ngày 22/08/2018, ông Bùi Việt L chuyển nhượng lại cho bà Dương Thị H3 và nộp thêm số tiền 400.000.000 đồng (tổng cộng là 500.000.000 đồng). Như vậy, thời điểm ngày 22/8/2018, việc mua bán giữa Công ty và bà Dương Thị H3 vẫn chưa hoàn tất (bà H3 vẫn nợ lại số tiền là 100.000.000 đồng).

Ngày 01/03/2019, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao có gửi Văn bản số 154/CV-TA đến Công ty đề nghị cung cấp thông tin về 2 lô đất trên. Đến ngày 04/03/2019, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao có gửi Văn bản số 159/2019 đề nghị Công ty không làm thủ tục mua bán, chuyển nhượng hay làm GCNQSDĐ cho bà H3 để Tòa án thực hiện giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản của bà Dương Thị H3 và ông Bùi Vù H4.

Ngày 05/3/2019, ông B (bố chồng của chị H3) có cầm giấy biên nhận đặt cọc và phiếu thu cũ ra để nộp nốt số tiền còn lại là 100.000.000 đồng và đề nghị Công ty chuyển nhượng cho người khác, nhưng Công ty có thông báo lại là đã có Văn bản của Tòa án nên không đồng ý cho chuyển nhượng.

Ngày 12/03/2020, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao có Văn bản số 94/2020/CV-TA về việc đã giải quyết xong vụ án, nên gửi công văn để hủy bỏ Văn bản số 159/2019/CV-TA ngày 04/03/2019. Ngay sau đó, chị H3 có đến đề nghị Công ty chuyển nhượng 2 lô đất đó cho ông Nguyễn Hữu H. Công ty đã cho bà H3 ký biên bản thanh lý giấy biên nhận đặt cọc và ký giấy biên nhận đặt cọc mới, ký hợp đồng chuyển nhượng với ông Nguyễn Hữu H và viết phiếu thu cho ông H tổng số tiền của 2 lô đất là 600.000.000 đồng.

Tuy nhiên, trong quá trình làm thủ tục sang tên cho ông H, các bên lại xảy ra tranh chấp. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 188 Luật đất đai về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất:

“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

b) Đất không có tranh chấp;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất.” Do đó, chúng tôi mới chỉ ký Hợp đồng chuyển nhượng với ông H mà vẫn chưa điền ngày, tháng vào Hợp đồng, chưa thực hiện thủ tục công chứng hợp đồng để làm thủ tục sang tên.

Hiện nay, Công ty đang phối hợp làm việc với Viện kiểm sát nhân dân tối cao về vụ việc nêu trên. Vì vậy, để tránh trường hợp phát sinh tranh chấp và ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ việc của các cơ quan chức năng, chúng tôi chưa thể làm thủ tục sang tên cho ông H. Ngay sau khi có quyết định giải quyết vụ việc, chúng tôi sẽ thực hiện đúng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Tại đơn đề nghị ngày 24/8/2023 và tại phiên tòa sơ thẩm ông T1 đề nghị: Đối với yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 - Chấp hành viên ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đối với yêu cầu của ông H, bà H1 yêu cầu công ty bồi thường 2.000.000.000đ thì ông không nhất trí vì thời điểm lập Hợp đồng chuyển nhượng 02 lô đất cho ông H, bà H1 ngày 12/3/2020 thì đến ngày 20/3/2020 Công ty có nhận được Công văn số 123/CV-CCTHADS về việc không thực hiện các công việc liên quan đến tài sản tài sản là 02 lô đất trên. Công ty N trả lại số tiền 6.600.000đ phí chuyển nhượng và phí công chứng cho ông H, bà H1.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Hà Xuân S1 - Chấp hành viên - Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao. Trong các lời khai và tại phiên tòa ông Hà Xuân S1 trình bày:

Căn cứ Bản án số 05/2019/DS-ST ngày 09/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao; Quyết định thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS ngày 02/10/2019 và số 28/QĐ-CCTHADS ngày 10/10/2019 của Chi cục THADS huyện L. Đối với bà Dương Thị H3 phải thi hành các khoản sau: án phí dân sự sơ thẩm 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng đồng); thanh toán trả nợ số tiền 400.000.000 đồng và lãi suất chậm trả theo bản án cho ông Bùi vũ H7, địa chỉ: khu I, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

Căn cứ bản án số 09/2020/DSST ngày 24/4/2020 của TAND huyện Lâm Thao; Quyết định thi hành án số 41/QD-CCTHADS ngày 03/6/2020 và số 296/QĐ-CCTHADS ngày 10/6/2020 của Chi cục T đối với bà H3 phải thi hành các khoản sau: án phí dân sự 17.500.000đ; thanh toán trả nợ 350.000.000đ và lãi suất chậm trả cho ông Bùi Vũ H4, địa chỉ: khu I, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

Căn cứ bản án số 17/2020/DSST ngày 22/9/2020 của TAND huyện Lâm Thao; Quyết định THADS số 18/QĐ-CCTHADS ngày 28/10/2020 và QĐ số 68/QĐ-CCTHADS ngày 09/11/2020 của Chi cục THADS huyện L đối với bà Dương Thị H3 phải thi hành các khoản sau: án phí dân sự sơ thẩm 35.113.000đ; thanh toán trả nợ 777.832.333đ và lãi suất chậm trả theo bản án cho ông Bùi Minh T3, địa chỉ: khu G, xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

Tổng 03 bản án dân sự trên bà Dương Thị H3 phải thi hành hai khoản sau:

- Án phí dân sự : 72.615.000đ;

- Thanh toán trả nợ: 1.527.832.333đ.

Quá trình tổ chức thi hành án xác định đây là vụ việc phức tạp, Chi cục THADS phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao, Phòng Tài nguyên và môi trường huyện, các cơ quan liên quan và UBND xã T trong việc và xác minh tài sản của bà Dương Thị H3 cụ thể sau:

Xác minh tài sản và làm việc nhiều lần với bà Dương Thị H3 thì bà H3 thừa nhận bà có 02 lô đất đã nộp tiền đặt cọc (bà đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính) cho C2 chi nhánh P2. Địa chỉ đất: khu B (nay là khu A) xã T, huyện L hai lô đất LK09:122,123 (nay là LK10: K06 = 100m2, K07= 100m2) trên đất có nhà xây 03 tầng (xây thô chưa hoàn thiện) bà H3 khẳng định đây là tài sản của bà.

Xác minh và làm việc với CT Sông Hồng ông Nguyễn Thiên T1, chức vụ phó Giám đốc và ông Phạm Xuân T4 cán bộ pháp chế của công ty cung cấp thông tin về 02 lô đất trên và nhà xây 3 tầng là của bà H3, các ông cho biết Công ty đã chấp nhận cho bà Dương Thị H3 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hữu H. địa chỉ: Khu T, xã P, huyện L, tỉnh Phú Thọ vào ngày 12/3/2020. Công ty không trực tiếp thu tiền đặt cọc của ông Nguyễn Hữu H mà đổi phiếu thu, chuyển đổi từ bà Dương Thị H3 sang ông Nguyễn Hữu H. Vì bà H3 đang nợ tiền của ông H.

Xác minh và làm việc với ông Nguyễn Văn T5, Giám Đốc Công ty chi nhánh P2, ông T5 và ông T4 cung cấp cho Chi cục THADS huyện L Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 02 lô đất trên. Hợp đồng chuyển nhượng không có số, không có ngày, tháng, năm chưa được cơ quan có thẩm quyền xác nhận; kèm theo là 02 phiếu thu của bà H3 gồm: một phiếu thu 500.000.000đ, thu vào ngày 22/8/2018 và 100.000đ thu vào ngày 05/3/2019 và 01 phiếu thu của ông H thu 600.000.000đ ngày 12/3/2020. Như vậy trùng hợp ngày tòa án giải tỏa. Như vậy bà H3 có biểu hiện tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Chi cục THADS huyện L làm việc với ông Nguyễn Hữu H, ông H trình bày: Do bà H3 nợ tiền của ông không có trả nên ông với bà H3 thoả thuận mua bán 02 lô đất và nhà xây trên đất, đến nay chưa có một cơ quan nào công nhận và làm thủ tục cho ông. CT Sông H chỉ thu lệ phí giấy tờ của ông 100.000đ (Một trăm ngàn đồng) còn phiếu thu 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng) là chuyển đổi từ bà H3 sang ông có nghĩa là hủy phiếu thu của bà H3 đổi sang phiếu thu đứng tên ông chứ ông không nộp tiền mặt cho công ty.

Sau khi xác minh và nghiên cứu các tài liệu thu thập được, áp dụng các văn bản pháp luật quy định Chi cục Thi hành án dân sự nhận thấy:

Trên thực tế sau khi thụ lý hồ sơ thi hành án đề thi hành bản án số 05/2019/DS-ST ngày 09/8/2019 của TAND huyện Lâm Thao và QDTHADS số 01/QĐ-CCTHADS ngày 02/10/2019. Chi cục THADS đã có văn bản số: 02/CV-CCTHADS ngày 07/10/2019 và văn bản số: 123/CV-CCTHADS ngày 18/3/2020 đề nghị v/v phối hợp Thi hành án (văn bản này công ty đã nhận) nội dung công văn là đề nghị CT Sông H3 không được làm thủ tục sang tên, mua bán trao đổi hoặc cầm cố thế chấp đối với hai lô đất K06, K07 và nhà xây trên đất.

Chi cục đã nhiều lần làm việc với lãnh đạo C2 chi nhánh P2 cho ý kiến; để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người có quyền lợi hợp pháp theo quy định của pháp luật, quan điểm của công ty N đề nghị chi cục THADS huyện L thực hiện theo quy định của pháp luật.

Căn cứ Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định: “Kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi kê biên tài sản, nếu có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật thi hành án dân sự”. Chi cục THADS huyện L đã có Thông báo cho các bên đương sự, người có tranh chấp (là ông H) có quyền khởi kiện theo Điều 75 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014. Tuy nhiên các bên được Thông báo hợp lệ (ông H) không thực hiện quyền khởi kiện.

Căn cứ Điều 50, Điều 71, Điều 110, Điều 111, Điều 112 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014. Chấp hành viên đã ban hành Quyết định Cưỡng chế kê biên tài sản số 08/QĐ-CCTHADS ngày 21/7/2020 Kê biên cưỡng chế tài sản là 02 Lô đất LK10: K06 =100m2, K07=100m2 và tài sản trên đất là 01 nhà xây 3 tầng khung cứng xây gạch chỉ chưa hoàn thiện để thi hành án. Quá trình xử lý tài sản Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao đã nhiều lần làm việc với CT Sông H3 và Chi nhánh Công ty tại xã T, huyện L liên quan đến 02 lô đất của bà H3 đã nộp tiền cọc 600.000.000đ tại công ty.

Ngày 14/8/2020 chấp hành viên đã xây dựng kế hoạch số 272/KH-CCTHADS (BL 71), ngày 11/9/2020 họp bàn tổ chức cưỡng chế có đầy đủ các thành phần tham gia họp, riêng ông T1, phó Giám Đốc CT Sông H3 không ký biên bản sau khi họp bàn để tổ chức cưỡng chế cuộc họp đi đến thống nhất:

Ngày 17/9/2020 tổ chức tiến hành kê biên tài sản của bà H3 gồm: kê biên lô đất LK10: K06= 100m2, K07=100m2 theo bản đồ quy hoạch ở thửa đất 1350, 1351 tờ bản đồ địa chính, đất ở liền kề trong thửa 1073, tờ bản đồ số 24, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phát hành số CO279023 (số vào sổ CT 06089) do UBND tỉnh P cấp ngày 19/6/2018 địa chỉ thửa đất xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ.

Chi cục THADS huyện L tiến hành cho các bên đương sự tự nguyện thoả thuận về giá, nhưng ông Bùi Vũ H4 không nhất trí về việc thoả thuận giá và đề nghị Chi cục THADS cho thẩm định giá tài sản theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/9/2020 Chi cục THADS huyện L đã ký hợp đồng thẩm định giá tài sản với Công ty TNHH T7, địa chỉ: P - N111C, ngõ A Hồ Đ, Phường N, quận Đ, Hà Nội.

Ngày 02/10/2020 Chi cục THADS huyện L nhận được kết quả chứng thư thẩm định giá của Công ty TNHH T7. Hai loại tài sản trên là quyền sử dụng đất và công trình xây dựng trên đất có tống giá là 1.102.264.000đ.

Ngày 19/10/2020 Chi cục THADS huyện L ra thông báo số 17/TB-CCTHDS thông báo về kết quả thẩm định giá tài sản cho các bên đương sự.

Ngày 26/10/2020 Chi cục THADS huyện L ra Thông báo số 23/TB-CCTHADS về việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá và được đăng trên trên cổng thông tin điện tử.

Ngày 30/10/2020 Chi cục THADS huyện L đã ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với Công ty Đ1, địa chỉ: SN A, phố T, T, TP V.

Ngày 25/11/2020 Công ty Đ1 gửi thông báo số 24/TB-ĐGCC về việc thông báo đấu giá không thành do không có người đăng ký tham gia đấu giá tài sản.

Ngày 26/11/2020 Công ty Đ1 có Công văn số 25/CV-ĐGCC đề nghị Chi cục THADS huyện L giảm giá tài sản.

Ngày 04/12/2020 Chi cục THADS huyện L thông báo số 55/TB-CCTHDS cho các đương sự biết về việc không có người tham gia đấu giá tài sản.

Ngày 16/12/2020 Chi cục THADS huyện L ban hành Quyết định số 02/QĐ-CCTHADS về việc giảm giá tài sản lần 1; đồng thời thông báo và ký phụ lục hợp đồng với Công ty Đ1 về việc tiếp tục đấu giá tài sản trên.

Ngày 17/01/2021 Chi cục THADS huyện L nhận được văn bản số 02/TB- ĐGCC về việc thông báo các khách hàng có đủ điều kiện tham gia đấu giá.

Ngày 22/01/2021 Công ty Đ1 tổ chức bán đấu giá thành công tài sản kê biên.

Ngày 23/01/2021 Chi cục T nhận được thông báo số 03/TB-ĐGCC thông báo về việc đấu giá thành tài sản.

Ngày 28/01/2021 người trúng đấu giá nộp đủ tiền mua tài sản.

Ngày 05/02/2021 Chi cục T tổ chức giao tài sản cho người trúng đấu giá.

Ngày 18/3/2021 Chi cục T ban hành Công văn số 125/CV-CCTHADS gửi UBND huyện L về việc đề nghị đăng ký quyền sử dụng, sở hữu tài sản bán đấu giá đề thi hành án.

Ngày 27/12/2021 Chi cục T ban hành Công văn số 88/CV-CCTHADS về việc đề nghị CT Sông H cung cấp các giấy tờ, xác nhận đề người mua tài sản trúng đấu giá hoàn thiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngày 25/01/2022 Chi cục THADS huyện, VKSND, Văn phòng Đăng ký QSDĐ, Chính quyền địa phương, C2 tiến hành họp về việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho người trúng đấu giá.

Nay ông H, bà H1 khởi kiện buộc CT Sông Hồng thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật và bàn giao cho vợ chồng ông H và bà H1 ô đất LK10 - K06; K07. Ông đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao tuyên bố “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 10/9/2018 giữa bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C với ông H, bà H1 (viết tay), 02 “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” 02 lô đất số LK09: I22, I23 (nay là lô đất số LK10: K06= 100m2; K07 = 100m2 theo bản đồ quy hoạch ở thửa đất 1350, 1351 tờ bản đồ địa chính, đất ở liền kề trong thửa 1073, tờ bản đồ số 24, giấy CNQSD đất phát hành số CO279023(số vào sổ 06089) do UBND tỉnh P cấp ngày 19/6/2018, địa chỉ: Xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ giữa CT Sông Hồng với ông H bà H1 không có số và ngày tháng năm là vô hiệu và đề nghị giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

- Ông H, bà H1 yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu và yêu cầu ông C, bà H3 và CT Sông H6 phải bồi thường thì ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

2. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Người đại diện theo pháp luật của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao trình bày:

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao thực hiện tổ chức đôn đốc thi hành án đối với bà Dương Thị H3 - sinh năm 1997, địa chỉ: khu B (nay là khu A) xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ, phải thi hành 06 Quyết định thi hành án dân sự với tổng số tiền phải thi hành: 1.600.447.333đ (trong đó: Án phí dân sự: 72.615.000đ; Thanh toán trả nợ: 1.527.832.333đ).

Quá trình tổ chức đôn đốc thi hành án đối với bà Dương Thị H3, Chi cục THADS huyện L xác minh tại CT Sông H cung cấp: Công ty có nhận tiền đặt cọc chuyển nhượng 02 lô đất số LK09. I22, I23 nay là ô đất số LK10: K06, K07 của bà Dương Thị H3, đồng thời CT Sông H6 đã đồng ý đề bà Dương Thị H3 xây 01 nhà 03 tầng (chưa hoàn thiện) trên đất. Ngày 05/3/2019 bà H3 đã thực hiện xong nghĩa vụ tàì chính với công ty (bà H3 nộp đủ 600.000.000đ) thể hiện tại các phiếu thu số 0589 quyền số 22 ngày 22/8/2018 và phiếu thu số 0952 quyển số 33 ngày 05/3/2019.

Mặc dù 02 lô đất nêu trên, bà Dương Thị H3 và CT Sông H chưa lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chưa thực hiện đăng ký chuyển quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền nhưng CT Sông H đã xác nhận: Đến ngày 05/3/2019, bà H3 đã nộp đủ số tiền 600.000.000đ là bà H3 đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với công ty. Kể từ thời điểm bà H3 thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, công ty sẽ có trách nhiệm thực hiện thủ tục để bà H3 được cấp giấy CNQSD đất đối với 02 lô đất nêu trên và trên thực tế CT Sông H3 đã đồng ý để bà H3 xây nhà trên đất. Do vậy mặc dù về mặt hình thức giữa CT Sông H chưa lập hợp đồng mua bán chuyển nhượng nhưng giữa các bên đã thực hiện xong nghĩa vụ, thể hiện là bà H3 đã nộp xong tiền mua đất (có biên lai) và công ty đã giao đất, đồng ý để bà H3 xây dựng nhà kiên cố trên đất. Căn cứ Điều 129 Bộ luật dân sự thì giao dịch dân sự giữa bà Dương Thị H3 và CT Sông H3 đã có hiệu lực pháp luật, 02 lô đất trên đã thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Dương Thị H3.

Đồng thời, quá trình TAND huyện Lâm Thao tiến hành thụ lý giải quyết vụ án dân sự số 43/TB-TLVA ngày 27/02/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Nguyên đơn là ông Bùi Vũ H4 - địa chỉ: Khu A (nay là khu I), xã T, huyện L và bị đơn là bà Dương Thị H3, địa chỉ: khu B (nay là khu A), xã T, huyện L. Để đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn là ông Bùi Vũ H4 (nay là người được thi hành án) nên ngày 04/3/2019 TAND huyện Lâm Thao đã ban hành công văn số 159/CV-TA đề nghị CT Sông H không cho bà Dương Thị H3 làm bất cứ thủ tục sang tên, chuyển nhượng hay ủy quyền nào liên quan đến số tiền đặt cọc tại Công ty. Tuy nhiên sau khi nhận được công văn số 94/CV-TA ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao hủy bỏ công văn số 159/CV-TA ngày 04/3/2019 trước đây đã ban hành của TAND huyện Lâm Thao, ngày 12/3/2020 bà H3 đến đề nghị CT Sông Hồng chuyển nhượng 02 lô đất trên cho ông Nguyễn Hữu H, công ty đã cho bà H3 ký biên bản thanh lý giấy biên nhận đặt cọc và CT Sông Hồng ký giấy biên nhận đặt cọc với ông H theo đề nghị của bà H3 (Công ty không trực tiếp thu tiền của của ông H mà chuyển từ phiếu thu của bà H3 sang tên cho ông H số tiền 600.000.000đ).

Từ những nội dung, kết quả xác minh nêu trên Chi cục THADS huyện L đã xác định: Người phải thi hành án là bà Dương Thị H3, có tài sản duy nhất là: Lô đất số LK09: I22, I23(nay là lô đất số LK10: K06= 100m2; K07 = 100m2 theo bản đồ quy hoạch ở thửa đất 1350, 1351 tờ bản đồ địa chính, đất ở liền kề trong thửa 1073, tờ bản đồ số 24, giấy CNQSD đất phát hành số CO279023(số vào sổ 06089) do UBND tỉnh P cấp ngày 19/6/2018, địa chỉ: xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ và tài sản gắn liền với đất là 01 nhà xây 03 tầng khung cứng gạch chỉ (xây mộc) chưa hoàn thiện (nguồn gốc đất bà H3 nhận chuyển nhượng từ Công ty cổ phần T6).

Đồng thời, tài sản nêu trên cũng đã được TAND huyện Lâm Thao hạn chế các giao dịch để đảm bảo quyền lợi cho việc giải quyết hợp đồng vay nợ giữa bà Dương Thị H3 và ông Bùi Vũ H4. Sau khi bản án dân sự có hiệu lực pháp luật, Chị H3 thỏa thuận bán tài sản (02 lô đất trên) cho ông H nhưng không dùng tiền bán tài sản để thi hành án như vậy, bà H3 có dấu hiệu không chấp hành việc thi hành án, tẩu tán tài sản; Giữa bà H3 và ông H có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu sử dụng (ông H chưa được cấp giấy CNQSD đất), nên căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 24 nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 sau đó được sửa đổi bổ sung tại Khoản 11 Điều 1 Nghị định 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 Nghị định sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/5/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật thi hành án dân sự Chi cục THADS huyện L đã tiến hành biên tài sản là 02 lô đất chị H3 đã đặt cọc nhận chuyển nhượng của CT Sông H3 đề đảm bảo thi hành án.

Tài sản nêu trên Chi cục THADS huyện L đã bán đấu giá để thi hành án, Tuy nhiên hiện nay người trúng đấu giá tài sản chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do CT Sông H3 không phối hợp, lý do hiện nay theo đề nghị của bà Dương Thị H3, Công ty đã thanh lý giấy biên nhận đặt cọc của chị H3 và ký giấy biên nhận đặt cọc mới với ông Nguyễn Hữu H, ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông H số tiền 02 lô đất là 600.000.000đ. Do vậy công ty không thực hiện được việc xác nhận sang tên 02 lô đất trên cho người trúng đấu giá tài sản.

Nay ông H, bà H1 khởi kiện buộc CT Sông Hồng thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật và bàn giao cho vợ chồng ông H và bà H1 ô đất LK10: K06; K07 (là thửa đất số 1350 và thửa đất 1351 theo bản đồ địa chính), Chi cục THADS huyện L đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

3. Ông Chử Đức C và bà Dương Thị H3.

Tại biên bản lấy lời khai ông C và bà H3 đều trình bày:

Ông bà có mua 02 lô đất của CT Sông H6 tại khu B (nay là khu A), xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Hai lô đất LK09: I23, I23 (nay là LK10: K06, K07), tổng diện tích 200m2. Khi lập Hợp đồng chuyển nhượng thì bà H6 là người đứng tên trong hợp đồng, giá thỏa thuận là 300.000.000đ/01 lô x 02 lô = 600.000.000đ. Ngày 22/8/2018 thu 500.000.000đ, ngày 05/3/2019 thu 100.000.000đ. Ngày 12/3/2010 lập phiếu thu chốt tổng số tiền là 600.000.000đ. Sau khi lập hợp đồng xong thì CT Sồng H6 đã chỉ mốc giới cho vợ chồng ông để làm nhà, vợ chồng ông đã xây xong tầng 1 và đang tiếp tục xây tầng 2. Ngày 10/9/2018, vợ chồng ông có lập Hợp đồng là “giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H1 02 lô đất nêu trên với giá thỏa thuận là 900.000.000đ.Vợ chồng ông có ký và ghi họ tên lại mục “Bên bán” trong hợp đồng. Sau khi lập hợp đồng, vợ chồng ông cùng ông H, bà H1 đến CT Sông H để hủy hợp đồng giữa vợ chồng ông với Công ty và lập hợp đồng mới giữa ông H, bà H1 với CT Sông H8. Vợ chồng anh có lập văn bản cam kết thanh toán tiền ngày 06/3/2020 với ông H, bà H1 và cùng ký ghi rõ họ tên, điểm chỉ trong văn bản cam kết; vợ chồng ông cũng đã được nhận đủ số tiền 900.000.000đ.

Nay ông H, bà H1 khởi kiện CT Sông H8 yêu cầu phải thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ cấp GCNQSDĐ và bàn giao 02 lô đất (LK10: K06; K07) cho ông H, bà H1 thì ông C, chị H8 đều nhất trí vì vợ chồng anh đã chuyển nhượng 02 lô đất trên cho anh H, chị H1.

Về yêu cầu của ông Hà Xuân S1 - Chấp hành viện chi cục THADS huyện L đề nghị tuyên “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 10/9/2018 là vô hiệu thì anh C, chị H8 đều không nhất trí. Đối với đề nghị tuyên 02 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa CT Sông Hồng với ông H, bà H1 là vô hiệu thì ông C, bà H8 cũng không nhất trí.

4. Ông Bùi Vũ H4 và bà Nguyễn Thị H5.

Trong các lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa ông Bùi Vũ H4 và bà Nguyễn Thị H5 đều trình bày:

Tại Bản án số 05/2019/DS-ST ngày 09/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao thì bà Dương Thị H3 phải trả cho ông H4 số tiền 400.000.000đ và lãi suất chậm trả theo bản án và Bản án số 09/2020/DSST ngày 24/4/2020 của TAND huyện Lâm Thao thì bà Dương Thị H3 phải trả cho ông H4 số tiền 350.000.000đ và lãi suất chậm trả theo bản án. Tổng hai bản án bà H3 phải trả cho ông H4 số tiền 750.000.000đ và lãi suất chậm trả theo bản án.

Sau khi án có hiệu lực pháp luật ông H4 có đơn đề nghị Thi hành án đối với bà Dương Thị H3. Việc Chi cục thi hành án thi hành án như thế nào thì anh H4 chị H5 không biết. Sau đó ông H4 là người trúng đấu giá tài sản là 02 lô đất số LK09: I22, I23 (nay là lô đất số LK10: K06= 100m2; K07 = 100m2 theo bản đồ quy hoạch ở thửa đất 1350, 1351 tờ bản đồ địa chính, đất ở liền kề trong thửa 1073, tờ bản đồ số 24, giấy CNQSD đất phát hành số CO279023(số vào sổ 06089) do UBND tỉnh P cấp ngày 19/6/2018, địa chỉ: Xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ và tài sản trên đất với giá là 1.554.060.240đ. Ngày 05/01/2021 Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao đã bàn giao tài sản trúng đấu giá cho anh H4 và chị H5.

Nay ông H và bà H1 khởi kiện buộc C2 thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật và bàn giao cho vợ chồng ông H và bà H1 ô đất LK10 - K06; K07 (là thửa đất số 1350 và thửa đất 1351 theo bản đồ địa chính), quan điểm của ông H4 và bà H5 đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ đã quyết định:

Căn cứ vào các điều: Điều 117, Điều 122, Điều 123, Điều 129, Điều 131, Điều 132, Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 2, khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

[1]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H1 yêu cầu C2 thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật và bàn giao cho vợ chồng ông H và bà H1 ô đất LK10 - K06; K07 (là thửa đất số 1350 và thửa đất 1351 theo bản đồ địa chính).

[2]. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1- Chấp hành viên - Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao.

- Tuyên bố “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 10/9/2018 giữa bà Dương Thị H3, ông Chử Đức C với ông Nguyễn Hữu H, chị Nguyễn Diễm H1 (viết tay) và 02 “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” 02 lô đất số LK09: I22, I23 (nay là lô đất số LK10: K06= 100m2; K07 = 100m2 theo bản đồ quy hoạch ở thửa đất 1350, 1351 tờ bản đồ địa chính, đất ở liền kề trong thửa 1073, tờ bản đồ số 24, giấy CNQSD đất phát hành số CO279023 (số vào sổ 06089) do UBND tỉnh P cấp ngày 19/6/2018, địa chỉ: Xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ giữa CT Sông Hồng với ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H1 không có số và ngày tháng năm vô hiệu.

*Hậu quả hợp đồng vô hiệu:

Bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải trả lại cho ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H1 số tiền 900.000.000đ (Chín trăm triệu đồng).

*Về bồi thường thiệt hại:

- Không chấp nhận yêu cầu bồi thường của anh Nguyễn Hữu H và chị Nguyễn Thị Diễm H9 yêu cầu CT Sông H3 bồi thường số tiền 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng).

- Chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường của ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H9 yêu cầu bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải bồi số tiền 1.100.000.000đ (Một tỷ một trăm triệu đồng) Buộc Bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá trị tài sản từ thời điểm giao dịch đến thời điểm giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là 734.000.000đ (Bảy trăm ba mươi bốn triệu đồng).

Công nhận sự thoả thuận của CT Sông Hồng với ông H, bà H9 cụ thể: C2 trả lại cho ông H, bà H9 số tiền 6.600.000 (Sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

[3]. Về lệ phí xem xét thẩm định và định giá tài sản: Ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H9 phải chịu toàn bộ lệ phí xem xét thẩm định và định giá tài sản số tiền 11.100.000đ. Xác nhận ông H, bà H9 đã nộp số tiền 11.100.000đ (Mười một triệu một trăm nghìn đồng) lệ phí xem xét thẩm định và định giá tài sản.

[4]. Về án phí: Ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H9 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trù vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA 0002332 ngày 29/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao. (Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận).

- Ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H9 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). (Do yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 - Chấp hành viên được chấp nhận).

- Bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). (Do yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 - Chấp hành viên được chấp nhận).

- Bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 39.000.000đ (Ba mươi chín triệu đồng). (Do phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản là trả lại cho anh H chị H9 số tiền 900.000.000đ) - Bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 33.360.000đ (Ba mươi ba triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng). (Do phải bồi thường thiệt hại chênh lệch giá trị tài sản cho anh H chị H9 số tiền 734.000.000đ).

- Ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H9 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 18.300.000đ (Mười tám triệu ba trăm nghìn đồng). (Do yêu cầu anh C chị H3 bồi thường không được chấp nhận của số tiền 366.000.000đ).

- Ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H9 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 72.000.000đ (Bảy mươi hai triệu đồng). (Do yêu cầu CT Sông H3 phải bồi thường thiệt hại số tiền 2.000.000.000đ không được chấp nhận).

- CT Sông H8 phải chịu án phí số tiền 330.000đ (Ba trăm ba mươi nghìn đồng).

Bản án còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 29 tháng 12 năm 2023, Người được nguyên đơn ủy quyền là bà Vũ Thị H2 kháng cáo không đồng ý với toàn bộ nội dung bản án của TAND huyện Lâm Thao vì các lý do sau:

Thứ nhất: Ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H9 khởi kiện đối với bị đơn là CT Sông H8 đề nghị TAND huyện Lâm Thao buộc CT Sông Hồngthực hiện thủ tục chuyển nhượng QSD đất, hoàn thiện hồ sơ cấp GCNQSD đất bàn giao 02 lô đất cho vợ chồng Ông H bà H9 sử dụng. Các căn cứ chứng cứ để yêu cầu CT S thực hiện ông H, bà H9 đã nêu cụ thể trong đơn khởi kiện. Các thủ tục pháp lý đã hoàn tất do vậy CT Sông H8 phải thực hiện thủ tục chuyển nhượng QSD đất, hoàn thiện hồ sơ cấp GCNQSD đất bàn giao 02 lô đất cho vợ chồng Ông H bà H9 sử dụng là đúng quy định của pháp luật.

Mặt khác ông H bà H9 khởi kiện CT Sông H8 là bị đơn nhưng không có yêu cầu phản tố đối với nội dung đơn khởi kiện của ông H và Bà H9 mà chỉ có ý kiến về việc chưa thực hiện thủ tục để cấp GCNQSD đất cho ông H bà H9 là do có văn bản của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao còn các thủ tục đã hoàn tất. Nếu như không có văn bản của TAND huyện Lâm Thao thì việc cấp GCNQSD đất cho ông H bà H9 đã được thực hiện. Giữa ông H bà H9 và CT Sông H8 không có tranh chấp. TAND huyện Lâm Thao không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H bà H9 làm xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của ông H bà H9 được pháp luật bảo hộ.

Thứ hai: TAND huyện Lâm Thao chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 là trái quy định của pháp luật bởi vì ông S1 không có quyền đề yêu cầu độc lập và cũng đã hết thời hạn để có yêu cầu độc lập. Tại văn bản ngày 17/4/2023 tôi đã phân tích và viện dẫn các căn cứ pháp luật đầy đủ. Việc TAND huyện Lâm Thao thụ lý đơn yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 là trái quy định của pháp luật.

Trong vụ án này người có yêu cầu độc lập phải là ông Bùi Vũ H4 và chị Nguyễn Thị H5 nhưng ông H4 và bà H5 không có yêu cầu độc lập đối với yêu cầu khởi kiện của ông H và bà H9.

Đối với công nợ giữa bà H8 ông C có nợ anh H4 và chị H5 là nợ riêng của bà H8 chứ ông Chử Đức C không nợ anh H4 và chị H5. Do vậy việc Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao thi hành án đối với 02 thửa đất bà H8 ông C đã làm thủ tục chuyển nhượng sang ông H bà H9 là trái quy định của pháp luật, đây là tài sản chung của bà H8 ông c chứ không phải tài sản riêng của bà H8.

Trong khi đó cả bà H8 ông C là người nhận 900.000.000đ ( Chín trăm triệu đồng) của ông H bà H9.

Thứ ba: Ông H và bà H9 là người thứ ba ngay tình, hợp pháp do vậy pháp luật phải bảo vệ người thứ ba ngay tình. TAND huyện Lâm Thao tuyên Buộc bà H8 ông C trả cho ông H và bà H9 số tiền 900.000.000đ (Chín trăm triệu đồng chẵn); Và bồi thường thiệt hại cho ông H bà H9 số tiền 734.000.000đ (Bảy trăm ba mươi tư triệu đồng). Nếu bà H8 ông C có tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì không có ý kiến gì, nhưng hiện tại bà H8 và ông C không còn tài sản gì thì việc thi hành án sau này sẽ không giải quyết được và như vậy đồng nghĩa với việc ông H bà H9 là người thứ ba ngày tình bị mất toàn bộ số tiền đã giao cho ông C bà H8? Trong khi đó số tiền 600 triệu đồng CT Sông H8 đã thu đủ của bà H8 ông C và chuyển sang tên ông H và bà H9 thì cấp sơ thẩm không đề cập đến.

Ngày 18 tháng 3 năm 2024 Người được nguyên đơn ủy quyền là bà Vũ Thị H2 có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện và một phần nội dung kháng cáo đối với yêu cầu C2 bồi thường cho ông H bà H9 số tiền 2.000.000.000 đồng.

Ngày 19 tháng 3 năm 2024 ông H bà H9 có đơn xin miễn giảm án phí đối với khoản án phí sơ thẩm đối với yêu cầu CT Sông H8 bồi thường số tiền 2.000.000.000 đồng không được chấp nhận.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên toà có quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà khi giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Hội đồng xét xử đã xét xử đúng nguyên tắc, nguyên đơn bị đơn và người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đơn kháng cáo của đương sự đúng hạn luật định, về nội dung đề nghị HĐXX: Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (có bài phát biểu lưu hồ sơ).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn làm trong hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án giải quyết vắng mặt bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan do có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt theo khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự. 

[2] Về nội dung kháng cáo của nguyên đơn.

[2.1] Về kháng cáo đề nghị buộc C2 thực hiện thủ tục chuyển nhượng QSD đất, hoàn thiện hồ sơ cấp GCNQSD đất bàn giao 02 lô đất cho vợ chồng ông H bà H9 sử dụng:

Xét về nguồn gốc hai lô đất LK09: I22, I23 (nay là LK10: K06=100m2, K07=100m2) trên đất có xây nhà 3 tầng (xây thô chưa hoàn thiện) trên cho thấy: CT Sông H được giao làm chủ đầu tư dự án Khu dân cư nông thôn mới tại xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Ngày 16/11/2017, Công ty đã nhận đặt cọc của ông Bùi Việt L 100.000.000 đồng để chuyển nhượng 2 lô đất (LK09: I22, I23 nay là lô đất số LK10: K06 = 100m2; K07 = 100m2 thửa số 1350, 1351, tờ bản đồ số 24) với giá là 600.000.000 đồng. Ngày 22/08/2018, ông Bùi Việt L chuyển nhượng lại cho bà Dương Thị H3 và nộp thêm số tiền 400.000.000 đồng (tổng cộng là 500.000.000 đồng). Như vậy, thời điểm ngày 22/8/2018, việc mua bán giữa CT Sông Hồng và bà Dương Thị H3 vẫn chưa hoàn tất (bà H3 vẫn nợ lại số tiền là 100.000.000 đồng). Trong khi chưa thanh toán xong khoản tiền trên, theo bà H3 ông c và bà H9 ông H cung cấp đến ngày 10/9/2018, bà Dương Thị H3 và ông Chủ Đức C1 có viết tay 01 "Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất" chuyển nhượng lô đất LK09 - I22 và I23 cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Diễm H9 với số tiền là 900.000.000 đồng (không có công chứng, chứng thực). Tại "đơn xin cắm đất" đề ngày 04/9/2018 của ông Chử Đức C thể hiện nội dung".... Vậy tôi làm đơn này xin Ban dự án sớm triển khai bàn giao đất cho gia đình chuẩn bị vật tư xây dựng" và ".... Phía gia đình đã ấn định ngày 12/8 âm lịch (tức ngày 21/9/2018 dương lịch) sẽ triển khai móng".

Ngày 01/03/2019, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao có gửi Văn bản số 154/CV-TA đến Công ty đề nghị cung cấp thông tin về 2 lô đất trên. Đến ngày 04/03/2019, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao có gửi Văn bản số 159/2019 đề nghị CT Sông H3 không làm thủ tục mua bán, chuyển nhượng hay làm GCNQSDĐ cho bà H3 để Tòa án thực hiện giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản của bà Dương Thị H3 và ông Bùi Vũ H4. Ngày 05/3/2019, ông B (bố chồng của bà H3) có cầm giấy biên nhận đặt cọc và phiếu thu cũ ra để nộp nốt số tiền còn lại là 100.000.000 đồng (số tiền này ông B thừa nhận do bà H3 đưa để nộp) và đề nghị CT Sông H8 chuyển nhượng cho người khác, nhưng CT Sông H8 có thông báo lại là đã có Văn bản của Tòa án nên không đồng ý cho chuyển nhượng. Ngày 12/3/2020, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao có Văn bản số 94/2020/CV-TA về việc đã giải quyết xong vụ án, nên gửi công văn để hủy bỏ Văn bản số 159/2019/CV-TA ngày 04/03/2019. Ngày 06/3/2020, ông C, bà H8 và ông H, bà H9 lập "Văn bản cam kết thanh toán tiền" tại Văn phòng C3, Phú Thọ. Ngày 12/3/2020 ông C, bà H8 và ông H, bà H9 đến CT Sông H để làm thủ tục chuyền phiếu thu số tiền đặt cọc 600.000.000đ của bà H8 sang tên ông Nguyễn Hữu H, ông H nộp thêm số tiền 6.000.000 đồng phí chuyển nhượng đất và nộp 600.000 đồng phí công chứng làm bìa đỏ. Đồng thời CT Sông H8 và ông H, bà H9 có lập 02 "Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất" 02 lô đất số LK09: 122, 123 (nay là lô đất số LK10: K06 = 100m2; K07 = 100m2 theo bản đồ quy hoạch ở thửa đất 1350, 1351 tờ bản đồ địa chính, đất ở liền kề trong thửa 1073, tờ bản đồ số 24) không có số và ngày tháng năm, không có công chứng, chứng thực.

Như vậy, tại thời điểm viết giấy biên nhận viết tay chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H bà H9 với ông C bà H8 ngày 22/8/2018, thì giữa CT Sông Hồng với bà H8, ông C mới chỉ lập hợp đồng đặt cọc số tiền 500.000.000 đồng. Đến ngày 05/3/2019 ông bà mới nộp nốt số tiền 100.000.000 đồng tiền cọc mua đất. Như vậy ở thời điểm 22/8/2018 diện tích đất trên vẫn do Công ty T6 quản lý vì bà H8 chưa nộp đủ số tiền 600.000.000đ nên ông bà không có quyền chuyển nhượng. Mặc dù 02 bên cho rằng viết giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 22/8/2018 nhưng đến ngày 04/9/2018 ông Chử Đức C chồng bà H8 vẫn làm "đơn xin cắm đất" gửi CT Sông H8 với nội dung".... Vậy tôi làm đơn này xin Ban dự án sớm triển khai bàn giao đất cho gia đình chuẩn bị vật tư xây dựng" và ".... Phía gia đình đã ấn định ngày 12/8 âm lịch sẽ triển khai móng (tức ngày 21/9/2018 dương lịch)". Như vậy là sau 11 ngày kể từ ngày bán cho ông H, bà H9 rồi nhưng ông C, bà H8 vẫn tiếp tục đào móng và làm nhà 03 tầng trên thửa đất này. Điều đó cho thấy việc viết giấy chuyển nhượng 02 thửa đất vào 22/8/2018 là không có thật mà chỉ nhằm mục đích hợp lý hóa về thời gian trước thời điểm bản án, quyết định, quyết định thi hành án có hiệu lực pháp luật nhằm mục đích tẩu tán tài sản trốn tránh nghĩa vụ thi hành án như lời khai của đại diện chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao. Thực chất việc chuyển nhượng được thực hiện vào 06/3/2020, (ngày ông C, bà H8 và ông H, bà H9 lập "Văn bản cam kết thanh toán tiền" tại Văn phòng C3, Phú Thọ) và ngày 12/3/2020 làm thủ tục tại CT S (tuy nhiên việc làm thủ tục này cũng chưa hoàn tất vì không ghi ngày tháng và không đóng dấu công ty mà chỉ có chuyển phiếu thu từ H8 sang H - H9). Khi làm hợp đồng 02 bên cũng không trả tiền mặt cho nhau mà theo ông H bà H9 cung cấp là việc trừ nợ do trước đây ông C bà H8 có nợ tiền ông bà H - H9. Phía anh S1 đại diện cho ông H bà H9 cũng thừa nhận trong số tiền 900.000.000đ trên thì trả tiền mặt khoảng 500 đến 600.000.000đ, số tiền còn lại được trừ vào nợ do trước đó ông C bà H8 nợ ông H bà H9. Mặt khác, kể từ ngày 02/10/2019 và ngày 10/10/2019 và năm 2020 Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao đã có quyết định thi hành án đối với bà H8 với tổng số tiền án phí dân sự : 72.615.000 đồng; Thanh toán trả nợ: 1.527.832.333 đồng. Như vậy, nếu có việc chuyển nhượng và trả cho nhau bằng tiền thì theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ thì số tiền chuyển nhượng phải được bà H8 dùng để trả cho người được thi hành án trừ khi bà H8 có tài sản khác để đảm bảo thi hành án nếu không thì tài sản đã chuyển nhượng vẫn bị kê biên và trên thực tế bà H8 không còn tài sản nào để thi hành án và số tiền có được khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất bà H8 cũng không dùng để thi hành án do đó Tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô hiệu hợp đồng trên là đúng nên không có cơ sở đề chấp nhận đối với nội dung kháng cáo trên.

[2.2] Về kháng cáo cho rằng cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 là trái quy định của pháp luật.

Ông Hà Xuân S1 là Chấp hành viên đã ban hành Quyết định Cường chế kê biên tài sản số 08/QĐ-CCTHADS ngày 21/7/2020, kê biên cường chế tài sản là 02 Lô đất LK10: K06 =100m2, K07=100m2 và tài sản trên đất là 01 nhà xây 3 tầng khung cứng xây gạch chỉ chưa hoàn thiện để thi hành án. Ông Hà Xuân S1 đồng thời là Chi Cục trưởng - Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao.

Ngày 25/9/2020 Chi cục THADS huyện L đã ký hợp đồng thẩm định giá tài sản với Công ty TNHH T7.

Ngày 30/10/2020 Chi cục THADS huyện L đã ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với Công ty Đ1. Ngày 05/02/2021 Chi cục T tổ chức giao tài sản cho người trúng đấu giá.

Tòa án cấp sơ thẩm đưa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao tham gia tố tụng là đúng. Tuy nhiên cá nhân ông Hà Xuân S1 có yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án tuyên bố “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 10/9/2018 giữa bà Dương Thị H3, ông Chử Đức C với ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9(viết tay) và 02 “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa CT Sông Hồng với ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 không có số và ngày tháng năm là vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là không đúng vì: Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 sửa đổi theo Nghị định 33/2020/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ thì không thuộc trường hợp Chấp hành viên có quyền yêu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với tài sản đó.

“1. Trường hợp tài sản đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà phát sinh các giao dịch liên quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án. Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với tài sản đó”.

Tuy nhiên việc thụ lý yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 không ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự.

Về yêu cầu: Đối với Công nợ giữa bà Dương Thị H3 với ông H4, bà H5 là nợ riêng của bà H3 chứ ông Chử Đức C không nợ. Do vậy việc Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao thi hành án đối với 02 thửa đất bà H3 ông C đã làm thủ tục chuyển nhượng sang ông H bà H9 là trái quy định của pháp luật, đây là tài sản chung của bà H3 ông C chứ không phải tài sản riêng của bà H3. Nội dung này không thuộc thẩm quyền giải quyết trong vụ việc vì vậy HĐXX không xem xét.

[2.3] Về kháng cáo cho rằng ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 là người thứ ba ngay tình, hợp pháp.

Ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bà Dương Thị H3, ông Chử Đức C nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất. Mặt khác (như nhận định phần [2.1]) bà Dương Thị H3 chuyển nhượng nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án nên ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 không thuộc trường hợp là người thứ ba ngay tình, hợp pháp theo Điều 133 Bộ luật dân sự.

Từ các lập luận trên thấy rằng, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định là đúng.

Đối với việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng bị đơn vắng mặt nên không lấy được ý kiến của bị đơn nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng Dân sự HĐXX không chấp nhận yêu cầu rút này.

Đối với việc rút một phần kháng cáo HĐXX đình chỉ một phần kháng cáo theo khoản 3 Điều 289 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Đối với đơn đề nghị miễn giảm án phí của ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 không phải là đơn kháng cáo, không thuộc trường hợp và không đủ điều kiện để xét miễn giảm nên HĐXX không xem xét.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ là có cơ sở nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên đương sự phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 289; Điểm a khoản 1 Điều 299; Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Đình chỉ kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 đối với yêu cầu buộc Công ty cổ phần T6 bồi thường cho ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 số tiền 2.000.000.000 đồng.

Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Căn cứ vào các điều: Điều 117, Điều 122, Điều 123, Điều 129, Điều 131, Điều 132, Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[1] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 yêu cầu Công ty cổ phần T6 thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật và bàn giao cho vợ chồng ông H và bà H9 ô đất LK10 - K06; K07 (là thửa đất số 1350 và thửa đất 1351 theo bản đồ địa chính).

[2] Tuyên bố “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 10/9/2018 giữa bà Dương Thị H3, ông Chử Đức C với ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 (viết tay) và 02 “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” 02 lô đất số LK09: I22, I23 (nay là lô đất số LK10: K06= 100m2, K07 = 100m2 theo bản đồ quy hoạch ở thửa đất 1350, 1351 tờ bản đồ địa chính, đất ở liền kề trong thửa 1073, tờ bản đồ số 24, giấy CNQSD đất phát hành số CO279023(số vào sổ 06089) do UBND tỉnh P cấp ngày 19/6/2018, địa chỉ: Xã T, huyện L, tỉnh Phú Thọ giữa Công ty cổ phần T6 với ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 không có số và ngày tháng năm vô hiệu.

*Hậu quả hợp đồng vô hiệu:

Bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải trả lại cho ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 số tiền 900.000.000đ (Chín trăm triệu đồng).

*Về bồi thường thiệt hại:

- Không chấp nhận yêu cầu bồi thường của ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 yêu cầu Công ty cổ phần T6 bồi thường số tiền 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng).

- Chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường của ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 yêu cầu bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải bồi số tiền 1.100.000.000đ (Một tỷ một trăm triệu đồng) Buộc bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C phải bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá trị tài sản từ thời điểm giao dịch đến thời điểm giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là 734.000.000đ (Bảy trăm ba mươi bốn triệu đồng).

Công nhận sự thoả thuận của Công ty cổ phần T6 với ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 cụ thể: Công ty cổ phần T6 trả lại cho ông H bà H9 số tiền 6.600.000 (Sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

[3] Về án phí:

[3.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Dương Thị H3 và ông Chử Đức C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). (Do yêu cầu độc lập của ông Hà Xuân S1 - Chấp hành viên được chấp nhận) như cấp sơ thẩm đã tuyên.

[3.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Ông Nguyễn Hữu H, bà Nguyễn Diễm H9 phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, số tiền 300.000 đồng tại Biên lai tạm ứng án phí lệ phí số 0001586 ngày 15 tháng 01 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao được chuyển thành án phí.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 21/2024/DS-PT

Số hiệu:21/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về