Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 28/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 118/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2021, về việc Tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đinh Thị N, sinh năm 2001 (có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1995 (có mặt). Đều cư trú: Thôn D, xã H, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 08 năm 2021, những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đinh Thị N trình bày: chị kết hôn với anh Nguyễn Quang T ngày 20/10/2020, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Trước khi kết hôn anh chị được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn với nhau. Sau khi kết hôn được 10 ngày vợ chồng về ở cùng bố mẹ đẻ chị tại xã D, huyện Tam Dương. Vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, nhiều lần anh T uống rượu về vô cớ chửi và đuổi chị. Sau khi chị sinh con, anh T không tin tưởng chị nói là đi xét nghiệm AND cho con chị, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng. Từ khi vợ chồng mẫu thuẫn đến nay anh T không hòa giải, động viên để vợ chồng về đoàn tụ, tiếp tục xúc phạm nhân phẩm chị. Sau khi anh T đưa chị và con về xã H để ở trong thời gian này vợ chồng mâu thuẫn vì con còn nhỏ phải ăn sữa mẹ anh T và gia đình giữ không cho chị đón con dẫn đến xảy ra việc xô xát anh T còn đập điện thoại của chị hiện nay Công an xã đang xác minh làm dõ. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn chị xin được ly hôn với anh T.

Bị đơn anh Nguyễn Quang T trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh trình bày: Về thời gian kết hôn, quá trình vợ chồng chung sống như chị N trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn tình cảm là không đúng, vợ chồng từ khi kết hôn sống bình thường, thỉnh thoảng có những mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống. Sau khi chị N sinh con ở nhà bố mẹ chị N thời gian ngắn thì anh đưa con và chị N về xã H ở nhưng chị N không đồng ý nên hai vợ chồng thường xuyên xảy mâu thuẫn về việc nuôi con chung và do nóng giận anh đã đập điện thoại di động của chị N hiện nay Công an xã H đang xác minh giải quyết. Nay chị N xin ly hôn anh, anh cũng xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn anh xin đoàn tụ để vợ chồng cùng nuôi dạy con.

Về con chung: Chị N, anh T xác nhận vợ chồng có Nguyễn Phú T, sinh ngày 10/6/2021. Hiện nay anh T đã đón cháu T về ở cùng, chị N hàng ngày phải lên cho con ăn sữa và chăm sóc con. Ly hôn anh chị đều xin được trực tiếp nuôi con và đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Trước khi sinh con chị N làm công nhân ở khu công nghiệp khai quang thu nhập từ 9.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/tháng. Hiện nay chị đang nghỉ chế độ thai sản.

Hiện nay anh T làm công nhân ở thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Thu nhập bình quân của anh từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, đất canh tác, công sức: Chị N và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô phát biểu quan điểm:

Về thủ tố tụng: Quá trình nhận đơn, thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ Thẩm phán đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự; Tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô không có yêu cầu hay kiến nghị gì và Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đinh Thị N. Xử cho chị N được ly hôn với anh T.

Xử về nuôi con chung giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Phú T, sinh ngày 10/6/2021 đến khi thành niên, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị N. Người không trực tiếp nuôi con có quyền nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng dân sự: Chị Đinh Thị N khởi kiện anh Nguyễn Quang T tranh chấp về quan hệ hôn nhân và gia đình, chị N có quyền khởi kiện yêu cầu ly hôn anh T. Bị đơn anh T có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn D, xã H, huyện Sông Lô nên thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện Sông Lô. Các đương sự tham gia tố tụng đảm bảo năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử xác định thủ tục tố tụng trong vụ án đảm bảo theo các quy định tại các Điều 28, 35, 39, 69 và Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Đinh Thị N và anh Nguyễn Quang T là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Sông Lô. Xét nguyện vọng xin ly hôn của chị N là có căn cứ vì quá trình vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân trong cuộc sống hàng ngày vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, không tin tưởng lẫn nhau. Trong quá trình giải quyết tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng chị N kiên quyết xin được ly hôn với anh T, chị cho rằng anh T xin đoàn tụ là gây khó khăn cho chị, con chị còn quá nhỏ vợ chồng mâu thuẫn không sống cùng nhau nhưng anh không cho chị đón con về nuôi dưỡng chăm sóc, chị thương con nên hàng ngày chị phải thuê xe về cho con ăn sữa mẹ làm cho mẫu thuẫn giữa chị và anh Trung ngày càng căng thẳng không hòa giải được. Mặt khác xác minh tại địa phương cho biết do con của anh chị còn nhỏ anh T đưa về gia đình ở Hải Lựu, chị N yêu cầu được ở nhà ngoại ở Tam Dương nuôi con nên giữa anh chị sảy ra mâu thuẫn. Anh T có nguyện vọng xin đoàn tụ, nhưng không động viên, hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ mà gây khó khăn cho chị trong việc đón con về chăm sóc và xúc phạm chị N. Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa anh chị đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc nên cho chị N được ly hôn anh T.

Về nuôi con chung: Chị N, anh T xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Phú T, sinh ngày 10/6/2021, hiện nay đang ở cùng anh T. Ly hôn anh chị đều xin nuôi cháu T và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng xin nuôi con của anh chị là phù hợp, tuy nhiên cháu T còn quá nhỏ, hiện nay được hai tháng tuổi, đang trong giai đoạn hoàn toàn ăn sữa mẹ nên cần giao cháu T cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Sau khi ly hôn anh T có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở là phù hợp với các Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, đất canh tác, công sức: Chị N, anh T không yêu cầu giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét quyết định.

[3] Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị N: Xử cho chị Đinh Thị N được ly hôn anh Nguyễn Quang T.

2/ Về nuôi con chung: Giao cho chị Đinh Thị N được tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cháu cháu Nguyễn Phú T, sinh ngày 10/6/2021 (hiện nay cháu T đang ở cùng anh T). Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N. Người không trực tiếp nuôi con có quyền nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3/ Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Đinh Thị N phải chịu 300.000đ án phí được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số AA/2017/0009302 ngày 16/8/2021 của Chi cục thi hành án dân sự Sông Lô. Chị N đã nộp đủ án phí.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 28/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:28/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về