Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXX-ST ngày 09/3/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1998 Nơi cư trú: thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Bùi Ngọc A1, sinh năm 1994 ĐKHKTT: thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: thôn H, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Chị A có mặt, anh A1 vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn chị Nguyễn Thị A có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị A kết hôn với anh Bùi Ngọc A1 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 25/3/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại xã A đến tháng 02/2019 thì vợ chồng chuyển khẩu về thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình sinh sống. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 12/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 01/2021 đến nay. Hiện Chị A vẫn sống tại xã Đ, huyện Đ, anh A1 thì chuyển về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ ở thôn H, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, Chị A đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh A1.

Về con chung: Chị và anh Bùi Ngọc A1 có 02 con chung là cháu Bùi Phương Mỹ A2 sinh ngày 08/8/2017 và Bùi Cát Hải A3 sinh ngày 10/7/2019. Ly hôn chị xin nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh A1 cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay Chị A mở Spa làm đẹp tại nhà, địa chỉ: thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình thu nhập hàng tháng là 15.000.000 đồng Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Bùi Ngọc A1 vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

- Tại biên bản xác minh với ông Bùi Duy T (bố đẻ anh A1) địa chỉ: thôn H, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình thể hiện:

Chị Nguyễn Thị A và anh Bùi Ngọc A1 là vợ chồng, có đăng ký kết hôn vào ngày 25/3/2017 tại UBND xã A. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống tại xã A đến đầu 2019 thì vợ chồng chuyển khẩu về thôn Trung, xã Đ, huyện Đ sinh sống. Quá trình chung sống vợ chồng anh A1, Chị A có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn thì gia đình không rõ. Hiện nay Chị A và anh A1 đang sống ly thân, anh A1 đang sinh sống cùng gia đình ông tại xã A. Về con chung: Chị A và anh A1 có 02 con chung là cháu Bùi Phương Mỹ A2 sinh ngày 08/8/2017 và Bùi Cát Hải A3 sinh ngày 10/7/2019, hiện các cháu đang ở cùng Chị A. Về tài sản chung: Vợ chồng Chị A, anh A1 không có tài sản chung. Ông Tuấn đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết. Gia đình ông đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh A1 và đã thông báo cho anh A1 biết.

- Tại biên bản xác minh với cơ sở thôn H, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình thể hiện:

Chị Nguyễn Thị A và anh Bùi Ngọc A1 là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A vào ngày 25/3/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng gia đình anh A1 một thời gian thì đến đầu năm 2019 chuyển khẩu về thôn Trung, xã Đ, huyện Đ làm ăn sinh sống. Quá trình chung sống đến khoảng tháng 01/2021 anh A1 chuyển về nhà bố mẹ đẻ tại thôn H, xã A sinh sống. Nay Chị A có đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Chị A và anh A1 có 02 con chung là cháu Bùi Phương Mỹ A2 sinh ngày 08/8/2017 và Bùi Cát Hải A3 sinh ngày 10/7/2019, hiện các cháu đang ở cùng Chị A. Về tài sản chung: Cơ sở thôn không nắm rõ.

- Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng là thể hiện chấp hành chưa tốt pháp luật tố tụng dân sự. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 , 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra, nguyên đơn phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Nguyễn Thị A và anh Bùi Ngọc A1 là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn đang cư trú tại xã A, huyện Quỳnh Phụ nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn hiện không có mặt tại địa phương nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, không cung cấp cho nguyên đơn biết địa chỉ hiện nay ở đâu là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa… cho bị đơn nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân và địa chỉ của bị đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của Chị A, anh A1 được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 25/3/2017 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn và chung sống được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 01/2021 đến nay, không hỏi han, chia sẻ với nhau. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, mặc dù biết được việc Chị A đề nghị ly hôn nhưng anh A1 không trực tiếp đến trình bày quan điểm với Tòa án. Điều này chứng tỏ anh A1 không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Như vậy có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa Chị A, anh A1 đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị A, xử cho chị được ly hôn anh A1 là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị A và anh Bùi Ngọc A1 có 02 con chung là Bùi Phương Mỹ A2 sinh ngày 08/8/2017 và Bùi Cát Hải A3 sinh ngày 10/7/2019, hiện con chung đang ở cùng Chị A. Ly hôn, Chị A đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh A1 cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con chung của Chị A là chính đáng, Chị A có công việc, thu nhập ổn định. Kể từ khi vợ chồng ly thân, một mình Chị A nuôi dưỡng, chăm sóc con chung khỏe mạnh. Do đó, để đảm bảo quyền lợi tốt nhất của con chung, Hội đồng xét xử cần giao con chung Bùi Phương Mỹ A2 sinh ngày 08/8/2017 và Bùi Cát Hải A3 sinh ngày 10/7/2019 cho Chị A trực tiếp nuôi dưỡng. Chị A không yêu cầu anh A1 phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị. Anh A1 có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị A không yêu cầu giải quyết, anh Bùi Ngọc A1 không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị A phải nộp án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Chị Nguyễn Thị A được ly hôn anh Bùi Ngọc A1.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao chị Nguyễn Thị A trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Bùi Phương Mỹ A2 sinh ngày 08/8/2017 và Bùi Cát Hải A3 sinh ngày 10/7/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Chị A không yêu cầu anh A1 phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, anh A1 có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung.

Hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con khi cần thiết.

3. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị A phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) Chị A đã nộp theo Biên lai thu số 0004567 ngày 07/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình được chuyển thành tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Bùi Ngọc A1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về