Bản án về tranh chấp dân sự nợ hụi số 23/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 23/2020/DS-ST NGÀY 02/07/2020 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ NỢ HỤI

Ngày 02/7/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 204/2020/TLST-DS, ngày 21 tháng 02 năm 2020 về việc: “Tranh chấp dân sự nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2020/QĐXXST-DS ngày 14/5/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2020/QĐST-DS ngày 05/6/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1969. Địa chỉ: Tổ 22, ấp BPL, xã BT, huyện CL, ĐT.

- Bị đơn: Bà Huỳnh Ngọc Đ, sinh năm 1969.

Địa chỉ: Âp BPL, xã BT, huyện CL, ĐT.

(Bà L có mặt, bà Đ vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm bà Nguyễn Thị Thanh L là nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 20/01/2016 âm lịch, bà L có mở dây hụi 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) mỗi tháng khui hụi một lần, dây hụi có 22 phần tham gia, bà Huỳnh Ngọc Đ tham gia 01 phần, bà Đ hốt hụi lần đầu. Tính đến ngày mãn hụi bà Đ phải đóng cho bà L 12 lần hụi chết với số tiền là 24.000.000 đồng. Nhưng từ khi mãn hụi cho đến nay bà Đ không chịu đóng hụi cho bà L mà còn thách bà L đi thưa kiện. Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/01/2020, bà L yêu cầu bà Huỳnh Ngọc Đ có trách nhiệm trả cho bà L số tiền hụi là 24.000.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bà L trình bày do không nhớ rõ nên bà L có trình bày nội dung khởi kiện không chính xác, nay bà L xin trình bày lại nội dung khởi kiện như sau: vào năm 2017 bà L có khởi kiện tại Tòa án huyện CL yêu cầu bà Đ trả số tiền nợ hụi là 71.000.000 đồng. Tại phiên hòa giải bà Đ thừa nhận còn nợ bà tổng số tiền nợ hụi trên nhưng có 02 dây hụi chưa mãn là dây hụi tháng 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 30/8/2015 âm lịch, mãn hụi ngày 30/7/2017 âm lịch, có 24 phần, bà Đ tham gia 01 phần, bà Đ đã hốt hụi lần thứ 4 và đóng được tổng cộng 10 lần, đến khi giải quyết vụ án thì bà Đ còn nợ 08 lần chưa đóng (đến khi mãn hụi thì còn nợ tiếp 06 lần chưa đóng) và dây hụi tháng 2.000.000 đồng, hụi khui ngày 20/01/2016 âm lịch, mãn hụi ngày 20/10/2017 âm lịch, hụi có 22 phần, bà Đ tham gia 01 phần. Bà Đ đã hốt hụi lần đầu và đóng được tổng cộng 04 lần, bà Đ còn nợ 09 lần chưa đóng (đến khi mãn hụi thì còn nợ tiếp 09 lần chưa đóng) nên tại phiên hòa giải ngày 07/3/2017 bà L yêu cầu bà Đ trả số tiền nợ hụi là 47.000.000 đồng.

Đối với số tiền 24.000.000 đồng của hai dây hụi chưa mãn là dây hụi tháng 1.000.000 đồng (đến khi mãn hụi thì còn nợ tiếp 06 lần chưa đóng) và dây hụi tháng 2.000.000 đồng (đến khi mãn hụi thì còn nợ tiếp 09 lần chưa đóng) thì bà Đ xin rút lại yêu cầu, không yêu cầu giải quyết. Khi nào mãn hụi thì bà L sẽ khởi kiện yêu cầu bà Đ trả số tiền nợ hụi 24.000.000 đồng.

Đến nay thì hai dây hụi trên đã mãn và bà Đ vẫn chưa trả số tiền nợ hụi 24.000.000 cho bà L nên nay bà L yêu cầu bà Đ trả số tiền nợ hụi của hai dây hụi trên với số tiền là 24.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

Bị đơn bà Huỳnh Ngọc Đ: đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án và được triệu tập xét xử hợp lệ, biết nội dung yêu cầu khởi kiện của bà L nhưng không có ý kiến, cũng không phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia hòa giải và không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu, chứng cứ như sau:

- Thẻ căn cước công dân Nguyễn Thị Thanh L và Sổ hộ khẩu Nguyễn Thị Thanh L (photo).

- Giấy hụi (photo).

- Đơn xác nhận hộ khẩu Nguyễn Thị Thanh L (Bản chính).

- Đơn xác nhận nợ tiền hụi của bà Huỳnh Ngọc Đ đề ngày 04/10/2016 (bản chính).

- Biên bản hòa giải ngày 07/3/2017 (photo).

- Biên bản hòa giải thành (photo).

- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 21 ngày 15/3/2017 của Tòa án huyện CL (photo).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Nguyễn Thị Thanh L yêu cầu bà Huỳnh Ngọc Đ có trách nhiệm trả cho bà L số tiền hụi 24.000.000 đồng. Ngoài ra các đương sự không ai có yêu cầu nào khác nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp dân sự nợ hụi theo quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự thì tranh chấp giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân và do bị đơn có địa chỉ ở ấp BPL, xã BT, huyện CL, tỉnh ĐT nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện CL theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Bà Huỳnh Ngọc Đ đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà Đ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2020/QĐXXST-DS ngày 14/5/2020, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là bà Phan Thị Nhã Quyên. Tuy nhiên do bà Phan Thị Nhã Quyên bận công tác đột xuất nên thay thế thẩm phán Võ Thị Ngọc Minh làm Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án. Đương sự có mặt đồng ý về sự thay đổi này và không có yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

Về nội dung:

Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thanh L yêu cầu bà Huỳnh Ngọc Đ phải trả cho bà L số tiền nợ hụi là 24.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi suất, Hội đồng xét xử nhận định:

[5] Trước đây bà Đ có chơi nhiều dây hụi do bà L làm đầu thảo. Vào năm 2017, bà Đ không trả tiền nợ hụi cho bà L nên bà L có khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện CL yêu cầu bà Đ trả số tiền nợ hụi cho bà L với số tiền 71.000.000 đồng. Do có 02 dây hụi chưa mãn là dây hụi tháng 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 30/8/2015 âm lịch, mãn hụi ngày 30/7/2017 âm lịch (đến khi mãn hụi thì còn nợ tiếp 06 lần chưa đóng) và dây hụi tháng 2.000.000 đồng, hụi khui ngày 20/01/2016 âm lịch, mãn hụi ngày 20/10/2017 âm lịch đồng (đến khi mãn hụi thì còn nợ tiếp 09 lần chưa đóng) chưa mãn nên tại phiên hòa giải ngày 07/3/2017 bà L yêu cầu bà Đ trả số tiền nợ hụi là 47.000.000 đồng. Còn số tiền hụi 24.000.000 đồng của hai dây hụi trên (chưa mãn hụi ) hụi thì bà L rút lại yêu cầu, khi nào mãn hụi sẽ khởi kiện sau. Đến nay thì hai dây hụi trên đã mãn và bà Đ vẫn chưa trả số tiền nợ hụi 24.000.000 đồng cho bà L nên bà L yêu cầu bà Đ trả số tiền nợ hụi 24.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

Trong quá trình tố tụng, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và thông báo kết quả chứng cứ mà nguyên đơn đã cung cấp nhưng bà Đ vẫn không đến Tòa án để giải quyết vụ án, đồng thời bà Đ cũng không có ý kiến phản bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và những tình tiết, tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp. Căn cứ vào khoản 1, 2 và 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự có thể khẳng định chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp là hợp lệ.

Như vậy, việc bà Đ còn nợ bà L số tiền hụi 24.000.000 đồng là có thật và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đến nay bà Đ vẫn chưa trả số tiền nợ hụi trên cho bà L.

Từ những căn cứ nêu trên đủ cơ sở để xác định việc bà Đ còn nợ bà L tiền hụi chưa trả với số tiền 24.000.000 đồng. Do đó buộc bà Huỳnh Ngọc Đ có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Thanh L số tiền nợ hụi 24.000.000 đồng là phù hợp theo quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án thì bà Đ phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 226, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 471 Bộ Luật dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thanh L.

- Buộc bà Huỳnh Ngọc Đ có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Thanh L số tiền nợ hụi 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về án phí:

Bà Huỳnh Ngọc Đ phải chịu 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị Thanh L không phải chịu án phí và được nhận lại số tiền 600.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009683 ngày 20/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện CL.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kề từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp dân sự nợ hụi số 23/2020/DS-ST

Số hiệu:23/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về