Bản án về tranh chấp dân sự hợp đồng tín dụng số 48/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TS, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 48/2022/DS-ST NGÀY 06/06/2022 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 06 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TS xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 146/2021/TLST-DS ngày 17 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp dân sự về Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2022/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 71/2022/QĐST-DS ngày 06 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA .

Địa chỉ trụ sở: số x Phan Đăng Lưu, phường 3, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh T – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh T1 – Chức vụ: Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA (Theo Quyết định số 11/QĐ- DAB-HĐQT ngày 24/01/2019).

Người được ủy quyền lại: Bà Văn Tố N – Chức vụ: Phó Giám đốc phòng giao dịch Long Xuyên – Chi nhánh An Giang (Theo Quyết định số 1183/QĐ- DAB-PC ngày 31/5/2022).

Bà Văn Tố N ủy quyền lại cho bà Trần Đoàn Ngọc L – Chức vụ: Nhân viên phòng giao dịch Long Xuyên – Chi nhánh An Giang (Theo Quyết định số 06/QĐ-LXN22 ngày 03/6/2022). (Có mặt)

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1958 (Vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Tấn A, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp TB B, xã VC, huyện TS, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) do bà Trần Đoàn Ngọc L là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA có cho bà Nguyễn Thị L1 vay số tiền 15.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 00727748/0145168601T19038 ngày 27/6/2019 được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA Chi nhánh An Giang – Phòng giao dịch Long Xuyên với bà Nguyễn Thị L1. Thời hạn vay 12 tháng (từ ngày 27/6/2019 đến ngày 27/6/2020), lãi suất tính trên dư nợ ban đầu trong hạn là 12%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; mục đích vay vốn: tiêu dùng; phương thức thanh toán: nợ gốc và lãi vay được bên vay trả góp liên tục 12 kỳ bằng nhau, chi tiết số tiền thanh toán theo từng kỳ đính kèm hợp đồng; hình thức bảo đảm nợ vay không có tài sản bảo đảm nhưng tại đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn ngày 03/6/2019 của bà Nguyễn Thị L1 có xác nhận của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ xã VC nếu trường hợp bà L1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ hàng kỳ cho Ngân hàng thì ông Nguyễn Tấn A là người bảo lãnh sẽ trả nợ thay cho bà L1 đến khi hết nợ vay tại Ngân hàng.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà Nguyễn Thị L1 đã thanh toán được số tiền gốc 6.538.461 đồng và lãi trong hạn 761.539 đồng, tổng cộng là 7.300.000 đồng thì không tiếp tục trả cho Ngân hàng. Mặc dù Ngân hàng đã đôn đốc, nhắc nhở nhiều lần nhưng vẫn không trả. Do bà L1 vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên từ ngày 09/11/2020 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu sang nợ quá hạn.

Nay Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA yêu cầu bà Nguyễn Thị L1 phải trả cho Ngân hàng số tiền vốn gốc và lãi tạm tính đến ngày 06/6/2022 là 13.452.643 đồng (trong đó vốn gốc 8.461.539 đồng, tiền lãi 4.841.104 đồng, phí thường niên duy trì thẻ 150.000 đồng) và tiếp tục chịu lãi phát sinh từ ngày 07/6/2022 theo lãi suất quá hạn của hợp đồng tín dụng đã ký cho đến ngày thực tế thanh toán đầy đủ số nợ vay. Trường hợp bà L1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì ông Nguyễn Tấn A là người bảo lãnh phải trả thay bà L1 cho đến khi dứt nợ.

* Về phía bị đơn bà Nguyễn Thị L1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tấn A: Trong quá trình thụ lý vụ án và hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật và triệu tập hợp lệ đương sự đến lần thứ hai nhưng không gửi văn bản ghi ý kiến của bản thân, cũng không đến tham gia phiên hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết là đúng theo trình tự thủ tục và thẩm quyền, trong quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án cũng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Về nội dung: Căn cứ theo các quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA, buộc bà Nguyễn Thị L1 phải trả cho Ngân hàng số tiền vốn gốc và lãi tạm tính đến ngày 06/6/2022 là 13.452.643 đồng (trong đó vốn gốc 8.461.539 đồng, tiền lãi 4.841.104 đồng, phí thường niên duy trì thẻ 150.000 đồng) và tiếp tục chịu lãi phát sinh từ ngày 07/6/2022 theo lãi suất quá hạn của hợp đồng tín dụng đã ký cho đến ngày thực tế thanh toán đầy đủ số nợ vay. Trường hợp bà L1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì ông Nguyễn Tấn A là người bảo lãnh phải trả thay bà L1 cho đến khi dứt nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị L1 trả tiền vốn vay và lãi theo Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 00727748/0145168601T19038 ngày 27/6/2019. Do đó xác định đây là tranh chấp dân sự về Hợp đồng tín dụng, bị đơn bà L1 có địa chỉ tại ấp TB B, xã VC, huyện TS, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TS theo quy định tại Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về nội dung:

Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA yêu cầu bà Nguyễn Thị L1 phải trả cho Ngân hàng số tiền vốn gốc và lãi tạm tính đến ngày 06/6/2022 là 13.452.643 đồng (trong đó vốn gốc 8.461.539 đồng, tiền lãi 4.841.104 đồng, phí thường niên duy trì thẻ 150.000 đồng) và tiếp tục chịu lãi phát sinh từ ngày 07/6/2022 theo lãi suất quá hạn của hợp đồng tín dụng đã ký cho đến ngày thực tế thanh toán đầy đủ số nợ vay. Trường hợp bà L1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì ông Nguyễn Tấn A là người bảo lãnh phải trả thay bà L1 cho đến khi dứt nợ.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 00727748/0145168601T19038 ngày 27/6/2019 giữa Ngân hàng và bà Nguyễn Thị L1 được xác lập, theo đó Ngân hàng cho bà L1 vay tín chấp số tiền 15.000.000 đồng; Thời hạn vay 12 tháng (từ ngày 27/6/2019 đến ngày 27/6/2020), lãi suất tính trên dư nợ ban đầu trong hạn là 12%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; mục đích vay vốn: tiêu dùng; phương thức thanh toán: nợ gốc và lãi và lãi vay được bên vay trả góp liên tục 12 kỳ bằng nhau, chi tiết số tiền thanh toán theo từng kỳ đính kèm hợp đồng; hình thức bảo đảm nợ vay không có tài sản bảo đảm nhưng tại đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn ngày 03/6/2019 của bà Nguyễn Thị L1 có xác nhận của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ xã VC nếu trường hợp bà L1 không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ hàng kỳ cho Ngân hàng thì ông Nguyễn Tấn A là người bảo lãnh sẽ trả nợ thay cho bà L1 đến khi hết nợ vay tại Ngân hàng. Hợp đồng tín dụng giữa hai bên đương sự được ký kết trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, hình thức và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định của pháp luật nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên phù hợp theo quy định tại các Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà L1 đã thanh toán được số tiền gốc số tiền gốc 6.538.461 đồng và lãi trong hạn 761.539 đồng, tổng cộng là 7.300.000 đồng thì ngưng không thực hiện nghĩa vụ trả vốn và lãi suất theo thỏa thuận là đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán của bên vay. Mặc dù Ngân hàng đã làm việc, đôn đốc nhắc nhở bà L1 nhiều lần nhưng bà L1 vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tính đến nay ngày 06/6/2022 bà L1 còn nợ Ngân hàng vốn gốc là 8.461.539 đồng, tiền lãi 4.841.104 đồng, phí thường niên duy trì thẻ 150.000 đồng, tổng cộng là 13.452.643 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ bà L1, ông An để tham gia hòa giải và ghi nhận ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nhưng phía bà L1, ông An đều vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản nào phản đối yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nên xem như bà L1, ông An đã từ bỏ quyền của mình. Hội đồng xét xử xét thấy, bà L1 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ như đã thỏa thuận nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà L1 phải trả cho Ngân hàng số tiền vốn gốc là 8.461.539 đồng, tiền lãi 4.841.104 đồng, phí thường niên duy trì thẻ 150.000 đồng, tổng cộng là 13.452.643 đồng và tiếp tục chịu lãi phát sinh từ ngày 07/6/2022 theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký cho tới khi thanh toán xong toàn bộ số nợ cho Ngân hàng là có căn cứ nên được chấp nhận.

Do ông Nguyễn Tấn A đã tự nguyện ký cam kết tại Đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn ngày 03/6/2019 của bà Nguyễn Thị L1 có xác nhận của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ xã VC bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ thay cho bà L1, việc bảo lãnh này hoàn toàn hợp pháp, phù hợp quy định của pháp luật. Do đó trường hợp bà L1 không trả được nợ cho Ngân hàng thì ông An phải là người có trách nhiệm trả nợ thay cho bà L1 theo cam kết đã ký.

[3] Về án phí:

Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA không phải chịu án phí, vì vậy được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Do vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên bà Nguyễn Thị L1 phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 85, Điều 86, Điều 144, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 335, Điều 336, Điều 342, Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA.

Buộc bà Nguyễn Thị L1 phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA tổng số tiền là 13.452.643 đồng (Mười ba triệu, bốn trăm năm mươi hai nghìn, sáu trăm bốn mươi ba đồng) trong đó vốn gốc 8.461.539 đồng, tiền lãi 4.841.104 đồng, phí thường niên duy trì thẻ 150.000 đồng.

Kể từ ngày 07/6/2022 bà Nguyễn Thị L1 còn phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký cho tới khi thanh toán xong toàn bộ số nợ cho Ngân hàng.

Trường hợp bà Nguyễn Thị L1 không trả được nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA thì người bảo lãnh ông Nguyễn Tấn A phải trả thay bà Nguyễn Thị L1 cho đến khi dứt nợ.

2. Về án phí sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị L1 phải chịu 672.632 đồng (Sáu trăm bảy mươi hai nghìn sáu trăm ba mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐA không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền 310.241 đồng (Ba trăm mười nghìn hai trăm bốn mươi mốt đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008699 ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TS, tỉnh An Giang.

3. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp dân sự hợp đồng tín dụng số 48/2022/DS-ST

Số hiệu:48/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về