Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 19/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC – TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 23/07/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 23 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2021/HSST ngày 10/6/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST - HS ngày 9/7/2021 đối với bị cáo:

BÙI VĂN Q – sinh ngày 08/10/1992; nơi sinh: Tân Lạc, Hòa Bình; Nơi cư trú: Xóm T, xã P, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tư do; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Bùi Văn N (đã chết) và bà Bùi Thị N, sinh năm 1964; Có vợ là Bùi Thị L, sinh năm 1991, có 02 con lớn nhất sinh năm 2013, con thứ hai sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại - có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1- Anh Nguyễn Tiến D, sinh năm 2003 (đã chết)

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu T, thị trấn M, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình

- Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1975 (Bố đẻ của bị hại); bà Phạm Thị V (mẹ đẻ bị hại); anh Nguyễn Văn Tr (anh trai bị hại). Bà V và anh Tr ủy quyền cho ông T tham gia phiên tòa - có mặt

Nơi cư trú: Khu T, thị trấn M, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình

2 – Anh Đỗ Minh Q1, sinh năm 2003 - (có mặt)

Nơi cư trú: Khu T, thị trấn M, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Cao Văn L, sinh năm 1971 - (vắng mặt)

Nơi cư trú: Xóm 5 Q, xã G, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định

- Người làm chứng: Anh Vũ Thái A, sinh năm 2003 (có mặt)

Nơi cư trú: Khu T, thị trấn M, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18h00’ ngày 26/12/2020 Bùi Văn Q, sinh năm 1992 trú tại xóm T, xã P, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28F-X đi từ nhà ra Quốc lộ 6 theo hướng Hòa Bình – Sơn La mục đích đến nhà bạn chơi. Khi đến đoạn km 114+550m, trên đường Quốc lộ 6 thuộc xóm Vìn Bái, xã Phú Cường, huyện Tân Lạc, đoạn đường lên dốc hướng Hòa Bình – Sơn La, mặt trải nhựa, có đoạn cong cua về bên phải có lòng đường rộng 7,35m, tại tim đường có vạch kẻ đường màu vàng kẻ đứt quãng. Q nhìn thấy một xe ô tô tải biển số 18C- X do anh Cao Văn L điều khiển xe lên dốc với tốc độ khoảng 20 – 30km/h. Q bật xi nhan vượt bên trái xe ô tô khi đến ngang thân xe ô tô Q phát hiện phía trước ngược chiều có ánh sáng đèn của xe mô tô do Đỗ Minh Q1, sinh năm 2003 điều khiển chở sau là Nguyễn Tiến D có khoảng cách khoảng 15 đến 20 mét, thấy vậy Q không kịp xử lý tránh an toàn mà điều khiển xe về phía bên trái hướng xe của Q dẫn tới đầu bên phải xe mô tô 28F2-X đâm va với phần đầu bên phải xe mô tô 28E-X do Q1 điều khiển gây tai nạn giao thông. Hậu quả xe mô tô do Q điều khiển đổ nghiêng bên trái và trượt rê về phía trước hướng Hòa Bình- Sơn La, Q, Q1 và D đều ngã văng ra đường, Nguyễn Tiến D văng ra khỏi xe về hướng xe ô tô 18C-X đang di chuyển thì bị lốp ngoài cùng bên trái của dàn lốp thứ ba từ trước ra sau của xe ô tô chèn, đè qua phần đầu của D đẩy về phái trước làm D tử vong tại chỗ, Q và Q1 bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viên huyện Tân Lạc và Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình. Hai chiếc xe mô tô bị hư hỏng.

Kết quả giám định pháp y số 129/GĐPY-CAT-PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Đối với bị hại Nguyễn Tiến D - nạn nhân chết do chấn thương sọ não.

Bản kết luận giám đinh pháp y về ADN số 33/21/TC-ADN ngày 30/12/2020 của Viện Pháp y Quốc gia Bộ y tế kết luận:” Thử định tính phát hiện nhanh vết máu người trên mẫu ký hiệu M2 gửi giám định: Dương tính. ADN thu từ mẫu ký hiệu M2 gửi giám định trùng khớp hoàn toàn với ADN của Nguyễn Tiến D (mẫu ký hiệu M1) Kết luận giám định thương tích số 78/KLGĐPY ngày 29/4/2021 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Hòa Bình đối với Đỗ Minh Q1: Gãy xương đòn trái đã can; gãy đốt 1 và ngón II bàn tay phải; Các vết sẹo bàn tay phải; các vết sẹo cẳng chân phải cổ chân phải có Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 14%.

Bùi Văn Q đi điều trị đến ngày 29/12/2020 được xuất viện.

Quá trình điều tra đã thu giữ những vật chứng sau:

- 01 xe mô tô BKS 28F2- X ; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 0022809 của xe biển kiểm soát 28F2-X mang tên Vũ Anh T - 01 xe mô tô biển kiểm soát 28E1-X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 005758 của xe biển kiểm soát 28E1-X mang tên Bùi Văn H - 01 xe ô tô biển kiểm soát 18C- X và 01 giấy phép lái xe ô tô hạng A1 số 36..46361085; đăng ký xe ô tô số 003898; giấy chứng nhận bảo hiểm số CI20CB 0094213; giấy chứng nhận kiểm định số KD 3656743 của lái xe Cao Văn L.

Khám nghiệm hiện trường xác định:

Vị trí xảy ra tai nạn tại km 114+550m Quốc lộ 6 thuộc địa phận xóm Vìn Bái, xã Phú Cường, huyện Tân Lạc, Hòa Bình. Đoạn đường xảy ra tai nạn rộng 7,35m mặt đường trải nhựa bằng phẳng, đường dốc theo hướng Hà Nội – Sơn La, tim đường có vạch kẻ sơn đường màu vàng dạng đứt quãng. Theo chiều từ Sơn La đi Hà Nội chọn mép đường phải làm điểm chuẩn, bên ngoài mép đường trái có cột mốc lộ giới ghi ký hiệu H5/114 được chọn làm điểm mốc ký hiệu là 10. Tại hiện trường (1) có vùng tạp chất dầu xe, mảnh nhựa, kim loại có diện 0,8m x 0,6m đo từ tâm vào mép đường phải là 1,6m. Điểm (2)Vết cà trượt trên mặt đường dài 0,4m hướng Sơn La – Hà Nội điểm cuối vết cà trượt xác định đo đến mép phải là 1,82m. Điểm (3) là vị trí xe mô tô BKS 28F2-X nằm đổ nghiêng về bên trái hướng đầu xe hướng về mép đường trái, đuôi xe quay hướng mép bên phải, đo từ tâm trục bánh trước (3) vào mép đường phải được 2,5m, đo từ tâm trục bánh sau vào mép đường phải được 1,3m và đến tâm (1) là 1,1m. Vị trí nạn nhân Nguyễn Tiến D xác định là (4) đầu nạn nhân hướng chếch chéo về Sơn La đi Hà Nội, chân cong gập chữ V hướng về mép đường bên phải. Đo từ đầu nạn nhân vào mép đường là 4,35m, đo từ giữa hai chân vào mép đường phải là 3,35m. Vị trí (5) là vết tạp chất màu đen (dầu) đo từ tâm (5) đến mép đường phải là 2,2m. Vị trí (6) là vết cà trượt mặt đường dài 1,3m hướng Sơn La – Hà Nội điểm cuối vết cà trượt kết thúc tại đầu ngoài để chân trước bên trái xe BKS 28E1-X, đo từ tâm trục (6) đến mép phải đường là 3m. Vị trí xe mô tô 28E1-X đổ nghiêng bên trái, đầu xe chếch nghiêng hướng Hà Nội, đuôi xe hướng Sơn La. (8) là vị trí xe ô tô BKS 18C- X đầu xe quay hướng Sơn La, đuôi xe hướng Hà Nội, đo từ tâm trục bánh trước bên trái (8) đến mép đường phải là 4m, đo từ tâm trục bánh sau đến mép đường phải là 4,2m, đến tậm trục bánh sau (7) được 1,3m. (9) là vị trí vết sước mặt đường hướng Sơn La - Hà Nội đo từ (9) đến mép phải đường là 4,2m. A1 xác định điểm va đầu tiên giữa xe mô tô BKS 28F2-X và xe mô tô 28E1-X tại tâm vị trí (1) đo từ A1 đến mép đường chuẩn được 1,7m, A2 là điểm va chạm giữa nạn nhân (4) và xe ô tô (8) tại ngay vị trí số (9)

Khám nghiệm phương tiện xe mô tô, xe ô tô xác định:

Đối với xe mô tô BKS 28F2- X: Toàn bộ ốp nhựa gãy rời ra ngoài để lộ hệ thống dây điện bên trong, bung rời mối bắt. Hệ thống đèn xi nhan vỡ rời, toàn bộ bánh xe phía trước và cổ phốt gẫy rời ra ngoài, bánh trước hết hơi, vành cong gập hình không xác định gãy nhiều nan hoa, vành xe cong gập sát moay ơ. Cạnh sau giảm xóc trước bên phải có vết trượt xước mài mòn kim loại. Kỹ thuật an toàn không khởi động được máy của xe, hệ thống phanh sau còn hoạt động.

Đối với xe mô tô BKS 28E1-X: Được mô tả tại bút lục 37, kỹ thuật an toàn phương tiện: Hệ thống đèn xi nhan còn hoạt động, còi còn hoạt động, hệ thống phanh trước còn hoạt động, phanh sau hỏng không hoạt động. Giá trị tài sản bị thiệt hại là 1.870.000đồng.

Đối với xe ô tô BKS 18C-X: Vết trượt sạch bụi đất của lốp cao su ngaoif cùng dàn lốp thứ ba bên trái từ trước ra sau diện 30 x 9cm, vết cách chữ FORTUNER 03 cm. Tại mặt lốp tiếp xúc với mặt đường nhựa tại lốp ngoài cùng dàn lốp thứ ba từ trước ra sau bên trái xe ô tô có bám dính tổ chức mô, biểu bì, vị trí bám dính các đầu trên chữ F trong dãy chữ FORTUNER 20cm. Kỹ thuật an toàn phương tiện hệ thống điều khiển hoạt động bình thường, hệ thống phanh, còi, đèn hoạt động bình thường.

Tại Cáo trạng số 20/CT- VKS ngày 9/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình truy tố Bùi Văn Q về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự

Tại cơ quan điều tra bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai phù hợp với tài liệu đồ vật thu giữ; biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường; Biên bản khám nghiệm tử thi; các Kết luận giám định cùng các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đúng với lời khai tại cơ quan điều tra, các chứng khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo thừa nhận hành vi đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đã truy tố bị cáo và không kêu oan. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

Về trách nhiệm dân sự:

Ngày 31/12/2020 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Cao Văn L đã tự nguyện hỗ trợ tổn thất tinh thần và mai táng phí cho gia đình bị hại D đại diện hợp pháp là ông T số tiền 51.000.000đồng. Hai bên thỏa thuận dân sự trên cơ sở tự nguyện và không có khiếu nại gì về trách nhiệm dân sự đối với ông Cao Văn L.

Bị cáo Q và gia đình đã thắp hương, phúng viếng và hỗ trợ ban đầu cho gia đình bị hại số tiền 10.500.000đồng, tiếp theo tại biên bản làm việc giữa bị cáo và ông T là đại diện hợp pháp cho bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền mai táng phí là 62.000.000đồng và tiền tổn thất tinh thần tổng cộng là 150.000.000đồng. Ngày 07/4/2021 bị cáo Q bồi thường thêm số tiền 50.000.000đồng. Ngày 09/7/2021 bị cáo tiếp tục bồi thường thêm số tiền 10.000.000đồng cho gia dình bị hại D. Tổng số bị cáo Q đã bồi thường là 70.500.000đồng.

Tại phiên tòa hôm nay ông T vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc bị cáo phải bồi thường tổng cộng là 150.000.000 đồng, đã bồi thường 70.500.000đồng, còn phải bồi thường tiếp số tiền 79.500.000đồng trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bị cáo Q phải bồi thường đầy đủ cho gia đình anh T. Bị cáo Q và đại diện hợp pháp cho bị hại đã thỏa thuận được mức tiền bồi thường số tiền 150.000.000đồng.

Đối với anh Đỗ Minh Q1 sau khi tai nạn bị gẫy xương đòn trái, gẫy đốt 1 ngón II bàn tay phải, các vết sẹo bàn tay phải và cẳng chân phải, đã có đơn từ chối giám định thương tích, xong cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Lạc đã ra quyết định trưng cầu giám định thương tích và có kết luận của Sở Y tế tỉnh Hòa Bình, bị hại Q1 có tỷ lệ thương tích là 14%. Bị hại Q1 không yêu cầu bị cáo Q phải bồi thường về trách nhiệm dân sự cũng như bồi thường thiệt hại chiếc xe mô tô bị hư hỏng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc phân tích lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, tài liệu đồ vật thu giữ; biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường; Biên bản khám nghiệm tử thi; các Kết luận giám định cùng các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ có sở xác định Bùi Văn Q phạm tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Bùi Văn Q từ 16 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật. Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng trả lại xe mô tô BKS 28E1-X và giấy tờ xe cho đại diện hợp pháp của bị hại D; trả lại xe mô tô BKS 28F2-X cho bị cáo Q. Chiếc xe ô tô cùng giấy tờ xe BKS 18C- X cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Lạc đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Cao Văn L nên không đề nghị gì thêm. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự về quyền kháng cáo; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét bị cáo Bùi Văn Q là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có giấy phép lái xe, ngày 26/12/2020 do phóng nhanh, vượt ẩu đã không quan sát đoạn đường định vượt có chướng ngại vật hay không đã vượt xe ô tô cùng chiều trên đoạn đường dốc có khúc cua bên phải, khuất tầm nhìn nhưng bị cáo Q đã tránh, vượt xe không đảm bảo an toàn, khi phát hiện xe mô tô ngược chiều do Q1 điều khiển chở D phía sau, dẫn đến tai nạn giao thông với xe mô tô đi ngược chiều, gây hậu quả làm nạn nhận Nguyễn Tiến D ngã văng ra đường bị dàn lốp của xe tải chèn, đè qua đầu làm D tử vong tại chỗ, Đỗ Minh Q1 bị thương, xe mô tô hư hỏng.

Nguyên nhân dẫn đến tai nạn là do bị cáo Q điều khiển xe mô tô không tuân thủ đúng quy tắc tham gia giao thông, không chấp hành quy định của Luật giao thông đường bộ. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 2, Điều 14 Luật giao thông đường bộ quy định về vượt xe, có đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự Bị cáo Bùi Văn Q điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ quan sát đoạn đường định vượt, chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ là vi phạm pháp luật song do chủ quan, cẩu thả nên đã vô ý phạm tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm an toàn, trật tự giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng của anh Nguyễn Tiến D và sức khỏe của anh Đỗ Minh Q1. Đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Vì vậy phải có một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[2].Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[3].Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4].Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn Q đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi tai nạn xảy ra bị cáo đã cùng gia đình tích cực bồi thường cho gia đình bị hại nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này bị hại Đỗ Minh Q1 cũng có một phần lỗi khi điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe nhưng vẫn điều khiển xe mô tô BKS 28E1-X tham gia giao thông, do vậy bị cáo Q được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Người đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại D và bị hại Q1 tại phiên tòa đã xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tạo điều kiện cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, được ở ngoài chăm sóc mẹ già và con nhỏ, cũng như có điều kiện lao động tiếp tục bồi thường tiền trách nhiệm dân sự cho bị hại D.

Khi lượng hình Tòa xét: Bị cáo Q chưa có tiền án, tiền sự, thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Gia đình bị cáo hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện hộ nghèo của xã P, xong sau tai nạn Bị cáo và gia đình đã tích cực bồi thường trách nhiệm dân sự cho cho gia đình bị hại.Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo Q thực hiện là lỗi vô ý, trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo tại địa phương, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên. Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cần áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự và ấn định thời gian thử thách nhất định dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ điều kiện để để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung. Đây cũng là bài học cho bị cáo nhận thức được trách nhiệm của bản thân khi tham gia giao thông cần tuân thủ đúng Luật giao thông đường bộ và các hành vi bị cấm khi tham gia giao thông.

Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, điều kiện hoàn cảnh của gia đình bị cáo, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã có đơn xin xét xử vắng mặt, anh L đã tự nguyện bồi thường, hỗ trợ tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại D, nay không có đề nghị gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trong vụ án này bị hại Đỗ Minh Q1 cũng có một phần lỗi do điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe nhưng vẫn điều khiển xe mô tô BKS 28E1-X tham gia giao thông nên Công an huyện Tân Lạc đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000đồng, anh Q1 đã nộp xong.

[5].Về vật chứng vụ án:

Đối với:

- 01 xe mô tô BKS 28F2-X, không có nhãn hiệu, đã qua sử dụng là xe do bị cáo mua lại của anh Quách Văn H, Lạc Sơn, Hòa Bình giao bán trên mạng xã hội và bán cho Q với giá 3.500.000đồng Hải đưa cho Q toàn bộ giấy tờ đăng ký xe, xe do Trung Quốc sản xuất; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số 0022809 của xe mô tô 28F2-X mang tên Vũ Anh T. Đây là vật chứng của vụ án, sau tai nạn xe bị hỏng hóc nặng, xét cần trả lại cho bị cáo Bùi Văn Q cùng toàn bộ giấy tờ xe đăng ký xe mà không bảo thủ để thi hành án.

Đối với 01 xe mô tô BKS 28E1-X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 005758 mang tên Bùi Văn H là xe của anh Nguyễn Văn T mua của anh Bùi Văn H vì bán đã lâu nên không nhớ có giấy bán xe cho nhau hay không, khi bán anh H đưa hết giấy tờ đăng ký xe cho anh T. Xét đây là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô 28E1-X và 01 đăng ký xe mô tô mang tên Bùi Văn H cần trả lại cho anh Nguyễn Văn T.

Đối với xe ô tô và các giấy tờ xe ô tô BKS 18C-X cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Lạc đã trao trả cho anh Cao Văn L nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về phần trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa bị cáo Q và đại diện hợp pháp cho bị hại đã tự nguyện thỏa thuận số tiền bồi thường mai táng phí và tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại số tiền 150.000.000. Bị cáo Bùi Văn Q đã bồi thường cho gia đình bị hại D số tiền là 70.500.000đồng bao gồm tiền mai táng phí, tiền tổn thất tinh thần cho những người đại điện hợp pháp cho bị hại D. Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự thỏa thuận thuận tự nguyện, không trái pháp luật nên công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và đại diện cho bị hại.

Tại phiên tòa hôm nay bị hại Q1 vẫn giữ nguyên nội dung đã thỏa thuận, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[7]. Xét về Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã áp dụng các quy định của pháp luật hình sự được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự; phía cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập tài liệu, chứng cứ còn thiếu nên Thẩm phán đã gửi Thông báo yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Bị cáo, bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định này. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện là hợp pháp. Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đã truy tố Bùi Văn Q theo tội danh và điều luật áp dụng trong Cáo trạng số 20/CT- VKSTL ngày 09/6/2021 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8]. Về án phí: Bị cáo Bùi Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án.

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Bùi Văn Q có đơn đề nghị xét miễn án phí án phí dân sự, bị cáo thuộc đối tượng hộ nghèo có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã P, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình nên được miễn án phí dân sự theo quy định pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại , người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 591 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” Xử phạt: Bùi Văn Q 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 (Ba mươi sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 23/7/2021. Giao bị cáo Bùi Văn Q cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Trong trường hợp Bùi Văn Q thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Bùi Văn Q cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc Bùi Văn Q phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo Bùi Văn Q và ông Nguyễn Văn T, bị cáo bồi thường cho những người đại diện hợp pháp cho bị hại Nguyễn Tiến D mà đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Văn T số tiền 150.000.000đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), bị cáo Quyền đã bồi thường số tiền 70.500.000đồng (Bảy mươi triệu, năm trăm ngàn đồng), nay còn phải tiếp tục bồi thường số tiền 79.500.000 đồng (Bẩy mươi chín triệu, năm trăm ngàn đồng) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Vật chứng:

Trả lại cho bị cáo Bùi Văn Q: 01 xe mô tô BKS 28F2-X, không có nhãn hiệu, đã qua sử dụng là xe do bị cáo mua lại của anh Quách Văn H ở huyện Lạc Sơn, Hòa Bình; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số 0022809 của xe mô tô 28F2- X mang tên Vũ Anh T.

Trả lại cho ông Nguyễn Văn T 01 xe mô tô BKS 28E1-X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 005758 mang tên Bùi Văn H là xe ông T mua lại. Xét đây là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô 28E1-X và 01 đăng ký xe mô tô mang tên Bùi Văn H cần trả lại cho ông Nguyễn Văn T.

Hiện những vật chứng này đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc, theo Biên bản giao nhận vật chứng số 022 ngày 24/6/2021 giữa Công an huyện Tân Lạc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc.

4. Án phí: Bị cáo Bùi Văn Q phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Được miễn nộp toàn bộ số tiền án phí dân sự sơ thẩm 3.975.000đồng.

5. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo; bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 19/2021/HS-ST

Số hiệu:19/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về