TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LÂM – TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 22/03/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 22/3/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hoà, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2022/HSST ngày 12 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2023/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 01 năm 2023; Quyết định hoãn phiên toà số 03/2023/HPT- HS ngày 16 tháng 02 năm 2023; Thông báo chuyển ngày xét xử số 02/TB-TA ngày 09 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:
Bùi Văn T, sinh ngày 10 tháng 05 năm 2003, tại Khánh Hoà; nơi ĐKHKTT: Thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hoà; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn S, sinh năm 1972 và bà Phan Thị Ngọc H, sinh năm 1975; vợ, con: chưa Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
- Bị hại: Trần Việt T1 (đã chết)
Đại diện hợp pháp cho bị hại:
1/ Trần M, sinh năm 1973 ( có mặt)
2/ Đặng Thị Anh Đ, sinh năm 1972 ( có mặt)
Cùng trú tại: Thôn V, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hoà.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Đặng Thị Anh Đ và ông Trần M là ông Nguyễn Quang V – Luật sư thuộc Công ty luật TNHH MTV T&V (số thẻ Luật sư 16498/LS ngày 27/10/2020)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Đặng Thị Anh Đ, sinh năm 1972; trú tại: Thôn V, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. (có mặt)
2/ Hồ Ngọc H, sinh ngày 19/02/2004; trú tại: Thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. (vắng mặt) - Người làm chứng:
1/ Bà Phan Thị Ngọc H.1, sinh năm 1975 ( có mặt) 2/ Hồ Ngọc Đ.1, sinh ngày 06/11/2005 (vắng mặt)
3/ Trần Trung H.2, sinh năm 1990 (vắng mặt)
4/ Trần Thế S, ngày 18/6/2006 (vắng mặt)
5/ Nguyễn Văn T.2, sinh ngày 11/12/2005 (vắng mặt)
6/ Trần Lê Anh K, sinh ngày 16/3/2004 (vắng mặt)
7/ Trần Lê Thế V.1, sinh ngày 16/3/2004 (vắng mặt)
8/ Phạm Đức L, sinh năm 2002 (vắng mặt) 9/ Nguyễn Đức T.3, sinh năm 2000 (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Văn T không có Giấy phép lái xe hạng A1. Khoảng 20 giờ ngày 06/6/2022, Bùi Văn T đến quán “Đồng Trống” ở thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hoà ăn uống cùng với Trần Thế S, Nguyễn Văn T.2, Hồ Ngọc Đ.1, Trần Lê Anh K, Trần Lê Thế V1 và Phạm Đức L. Khoảng 15 phút sau, T nhận được điện thoại của Nguyễn Đức T.3 ở cùng thôn nhờ T đến khu vực phòng trọ bên cạnh trụ sở UBND xã S để điều khiển xe mô tô của T.3 về nhà giúp, T đồng ý. Lúc này, T thấy chiếc xe mô tô biển số 79Z1 – X của Hồ Ngọc H (xe Hùng cho em ruột là Hồ Ngọc Đ.1 mượn để đi lại) có gắn chìa khoá nên lấy điều khiển và chở S đi cùng. T điều khiển xe lưu thông trên QL1A theo hướng Nam – Bắc với tốc độ khoản 60km/h. Khi đến khu vực cho phép quay đầu xe thuộc thôn V, xã S, huyện C thì T điều khiển cho xe chuyển hướng sang làn đường bên trái và chạy ngược chiều theo hướng Nam – Bắc. Khi đang chạy ngược chiều trên cầu vượt tại km 1477 +100 thuộc thôn V, xã S, huyện C, do không quan sát phía trước nên mô tô T điều khiển va chạm với mô tô 79Z1 – X do Trần Việt T.1, sinh năm 2004 điều khiển lưu thông đúng phần đường theo chiều ngược lại làm T, Sơn, T.1 cùng 02 xe mô tô ngã xuống đường.
Hậu quả: Trần Việt T.1 tử vong trên đường đi cấp cứu; Bùi Văn T và Trần Thế S bị thương nhẹ.
Tại kết luận giám định pháp y về tử thi số 259/TT-TTYP ngày 13/6/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hoà kết luận nguyên nhân tử vong của Trần Việt T.1 là: “Đa chấn thương”; riêng Bùi Văn T và Trần Thế S đã từ chối giám định tỷ lệ thương tật.
Bản Cáo trạng số 01/CT-VKS-CL ngày 09/12/2022 của Viên Kiểm sát nhân dân huyện Cam Lâm truy tố bị cáo Bùi Văn T về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lâm đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 03 năm đến 03 năm 6 tháng tù.
Về phần dân sự:
- Đại diện hợp pháp của người bị hại ông Trần M và bà Đặng Thị Anh Đ yêu cầu bị cáo bồi thường:
1. Chi phí mai táng 113.000.000đ (một trăm mười ba triệu đồng);
2. Tổn thất về tinh thần: 120.000.000đ (một trăm hai chục triệu đồng).
Tổng cộng 233.00.000.đ (hai trăm ba mươi ba triệu đồng), bị cáo đồng ý bồi thường nên ghi nhận. Bị cáo đã bồi thường 30.000.000đ (ba chục triệu đồng) nên bị cáo phải bồi thường tiếp 203.000.000đ (hai trăm lẻ ba triệu đồng) cho đại diện hợp pháp bị hại.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Anh Đ yêu cầu bị cáo trả chi phí sửa chữa xe mô tô 79Z1 – X số tiền 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng) bị cáo đồng ý nên ghi nhận - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hồ Ngọc H vắng mặt đề nghị tách ra để giải quyết trong vụ án khác khi có yêu cầu.
Bị cáo và các bên không tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Ngọc H vắng mặt; các người làm chứng Hồ Ngọc Đ.1, Trần Trung H.2, Trần Thế S, Nguyễn Văn T.2, Trần Lê Anh K, Trần Lê Thế V.1, Phạm Đức L, Nguyễn Đức T.3 vắng mặt. Việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 292 và 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về quá trình thu thập chứng cứ của cơ quan điều tra.
[3] Quá trình thu thập các tài liệu, chứng cứ của Điều tra viên, Kiểm sát viên đúng quy định pháp luật.
[4] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 06 tháng 6 năm 2022, Bùi Văn T (chưa có giấy phép lái xe hạng A1) điều khiển xe mô tô 79Z1 – X chở Trần Thế S đi ngược chiều trên phần đường dành cho xe chạy theo hướng Bắc – Nam, khi đến Cầu vượt tại Km 1477 +100 thuộc thôn V, xã S, huyện C đã va chạm với xe môt ô 79Z1 – X do Trần Việt T.1 đang đi đúng phần đường. Hậu quả làm T.1 tử vong trên đường đi cấp cứu, T.2, S bị thương nhẹ.
Bản Cáo trạng 01/CT-VKS-CL ngày 09/12/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cam Lâm truy tố bị cáo Bùi Văn T về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.
[5] Bị cáo chưa có giấy phép lái xe hạng A1 nên chưa đủ điều kiện điều khiển xe mô tô trên 50cm3, bị cáo đã tự ý lấy xe mô tô 79Z1 – X sử dụng và đi sai phần đường là nguyên nhân gây ra tai nạn. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; vi phạm khoản 9 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ. Vì vậy cần có mức hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục răng đe phòng người chung. Tuy nhiên ,bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường và tác động người nhà bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
- Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường về chi phí mai táng là 113.000.000đ và yêu cầu bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần là 120.000.000đ (một trăm hai mươi triệu đồng). Tổng cộng 233.00.000.đ (hai trăm ba mươi ba triệu đồng), bị cáo đồng ý nên ghi nhận. Bị cáo đã bồi thường được 30.000.000đ (ba chục triệu đồng) nên bị cáo phải bồi thường tiếp 203.000.000đ (hai trăm lẻ ba triệu đồng) cho đại diện hợp pháp của bị hại.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Anh Đ yêu cầu bị cáo trả chi phí sửa chữa xe mô tô 79Z1 – X số tiền 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng); Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hồ Ngọc H yêu cầu bị cáo trả tiền sửa chữa xe mô tô 79Z1- X số tiền 12.415.000đ (mười hai triệu bốn trăm mười lăm nghìn đồng), bị cáo đồng ý nên ghi nhận.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 11.621.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015 đối với bị cáo Bùi Văn T.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 03 (ba) năm tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án.
Về phần dân sự: Áp dụng các Điều 589, 590, 591 Bộ luật dân sự 2015 Bị cáo phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 203.000.000đ (hai trăm lẽ ba triệu đồng); bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Anh Đ số tiền 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng), bồi thường cho Hồ Ngọc H số tiền 12.415.000đ (mười hai triệu bốn trăm mười lăm nghìn đồng).
Quy định: Kể từ ngày bên có quyền yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu bên có nghĩa vụ thi hành án không thi số tiền phải thi hành án thì phải trả lãi theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Về án phí: Bị cáo Bùi Văn T phải chịu 11.621.000đ (mười một triệu sáu trăm hai mươi mốt nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Bùi Văn T, ông Trần M, bà Đặng Thị Anh Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Hồ Ngọc H quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 08/2023/HS-ST
Số hiệu: | 08/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cam Lâm - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về