TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 42/2022/TLST - HS ngày 10 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST - HS ngày 29 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:
Hà Văn Đ (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 1969 tại tỉnh Yên Bái; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản K, xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn S, sinh năm 1919 (đã chết) và bà Cao Thị B, sinh năm 1928 (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1969; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1993; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/01/2022, đến ngày 28/01/2022 bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng tháng 8/2021, Hà Văn Đ đang là công nhân tham gia thi công công trình thủy điện N, xã B, huyện P, tỉnh Lai Châu. Công việc của Đ tại công trường là đảm bảo đường điện trong hầm, thông khí và quản lý việc ra vào cửa hầm. Theo lời khai của Đ, trong thời gian làm việc tại đây, Đ có quen biết một người đàn ông tự giới thiệu tên C (Đ không biết họ, địa chỉ) đang làm nghề khai thác vàng, C muốn Đ tìm thuốc nổ cho C nhưng Đ chưa đồng ý. Sau đó, C và Đ cho nhau số điện thoại để tiện liên lạc. Sau nhiều lần Đ nhận được điện thoại của C từ số thuê bao 0925.716.437 với nội dung tiếp tục nhờ Đ kiếm thuốc nổ để khai thác vàng. Đến khoảng 14 giờ 00 phút ngày 19/01/2022, C tiếp tục gọi điện cho Đ nhờ kiếm thuốc nổ, do nể C nên Đ đồng ý.
Theo lời khai của Hà Văn Đ: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 19/01/2022 và 13 giờ 30 phút ngày 20/01/2022, khi tất cả công nhân đã ra khỏi hầm công trình thủy điện N, xã B, huyện P, tỉnh Lai Châu phát hiện không có người trông coi nên Đ đã một mình vào trong hầm chiếm đoạt 02 lần 02 túi thuốc nổ (gồm 40 thỏi thuốc nổ nhũ tương) và 04 kíp nổ điện. Thực tế, điều tra xác minh công trình thủy điện N không bị mất số vật liệu nổ trên. Sau khi chiếm đoạt số vật liệu nổ trên, Đ gọi điện cho C thông báo đã có thuốc nổ. C hẹn gặp Đ tại khu vực đường đi qua đập tràn, tiếp giáp ven suối thuộc bản L, xã B, huyện P, tỉnh Lai Châu. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 20/01/2022, không thấy C gọi lại nên Đ điều khiển xe mô tô của mình, biển kiểm soát 21K1-042.69 mang theo 02 túi thuốc nổ cất giấu trong cốp xe và 04 kíp nổ cất giấu trong túi áo khoác đang mặc, đi từ công trình thủy điện N, xã, huyện P để đến điểm hẹn. Đến hồi 15 giờ 35 phút cùng ngày, khi Hà Văn Đ đi đến điểm hẹn nhưng chưa kịp gặp và giao số vật liệu nổ trên cho C thì bị tổ công tác Công an tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Tại phiên tòa, bị cáo Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Về các vấn đề khác của vụ án: Bị cáo Hà Văn Đ khai nhận số vật liệu nổ mà Công an thu giữ gồm 08 kg thuốc nổ nhũ tương, 04 kíp nổ điện vỏ nhôm là của Đ vận chuyển mang cho C; 01 xe mô tô biển kiểm soát 21K1 -042.69, 01 đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Đ, 01 điện thoại di động OPPO màu xanh đen là của Đ dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Còn lại 01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe và 01 bảo hiểm y tế là giấy tờ tùy thân, ngày 21/02/2022 Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Lai Châu đã trả lại cho Đ.
Quá trình điều tra bị cáo Hà Văn Đ khai nhận nguồn gốc số vật liệu nổ trên do Đ chiếm đoạt tại công trình thi công hầm thủy điện N, xã B, huyện P, tỉnh Lai Châu. Kết quả điều tra xác định công trình hầm thủy điện N không có việc thất thoát, mất trộm vật liệu nổ. Do vậy, Cơ quan an ninh điều tra không đủ căn cứ để làm rõ hành vi chiếm đoạt vật liệu nổ cũng như nguồn gốc số vật liệu nổ đã thu giữ của Hà Văn Đ.
Theo khai nhận của Hà Văn Đ: Đối tượng tên C là người đặt vấn đề nhờ Đ kiếm vật liệu nổ để C khai thác vàng trái phép, C sử dụng số thuê bao 0925.716.437. Quá trình điều tra xác định chủ thuê bao số điện thoại trên là của Trương Tất H, H đã đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản từ ngày 11/6/2019 đến nay chưa về địa phương. Vì vậy, Cơ quan an ninh điều tra chưa xác định được số điện thoại trên ai là người quản lý sử dụng và chưa đủ căn cứ điều tra làm rõ với đối tượng tên C. Cơ quan an ninh điều tra tiếp tục điều tra, khi đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định số 151/GĐ-KTHS ngày 21/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 40 thỏi chất dẻo có tổng khối lượng là 08 kg.
Tại bản kết luận giám định số 152/GĐ-KTHS ngày 27/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 02 mẫu vật gửi giám định là thuốc nổ, loại thuốc nổ nhũ tương.
Tại bản kết luận giám định số 934/C09-P2 ngày 15/02/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Các mẫu vật ký hiệu K1, K2, K3, K4 gửi đến giám định đều là kíp nổ điện vỏ nhôm, còn sử dụng được. Kíp nổ có tác dụng kích nổ thuốc nổ.
Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKSLC-P1 ngày 09/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Hà Văn Đ về tội “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ” theo khoản 1 Điều 305 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 305, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm. Áp dụng khoản 5 Điều 305 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 áo khoác màu đen size L 175/92A; Tịch thu giao Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu xử lý theo pháp luật: 7,6 kg thuốc nổ nhũ tương còn lại sau giám định và 04 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm; Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô biển kiểm soát 21K1-042.69, màu nâu-vàng-đen, nhãn hiệu HONDA FUTURE, dung tích xi lanh 124, số máy JC53E-0018116, số khung RLHJC 5307CY018053 kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Hà Văn Đ; 01 điện thoại di động OPPO F9 màu xanh đen kèm theo 02 sim.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định nêu trên.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hồi 15 giờ 35 phút ngày 20/01/2022, mặc dù không được cho phép của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng Hà Văn Đ đã điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 21K1-042.69 vận chuyển 40 thỏi thuốc nổ nhũ tương có tổng khối lượng 08 kg được cất giấu trong cốp xe và 04 kíp nổ điện cất giấu ở túi áo khoác đang mặc, đi đến khu vực đường đi qua đập tràn, tiếp giáp ven suối thuộc bản L, xã B, huyện P, tỉnh Lai Châu thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.
Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với vật liệu nổ, gây ảnh hưởng tới trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ” theo khoản 1 Điều 305 Bộ luật hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo; bị cáo đã tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra phát hiện 02 vụ án khác xảy ra trên địa bàn huyện P, tỉnh Lai Châu nên Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Lai Châu có Công văn số 91/ANĐT ngày 15/6/2022 về việc xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên có thể cho bị cáo tự cải tạo tại địa phương và ấn định thời gian thử thách để bị cáo thấy được tính nhân đạo của Nhà nước ta mà cố gắng cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
Do đó quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai và đúng quy định của pháp luật.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 305 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm”. Xét thấy bị cáo là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án: 01 áo khoác màu đen size L 175/92A là của bị cáo dùng để cất giấu 04 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm, xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.
7,6 kg thuốc nổ nhũ tương còn lại sau giám định và 04 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm cần tịch thu giao Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu xử lý theo quy định pháp luật theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.
01 xe mô tổ biển kiểm soát 21K1-042.69, màu nâu-vàng-đen, nhãn hiệu HONDA FUTURE, dung tích xi lanh 124, số máy JC53E-0018116, số khung RLHJC 5307CY018053 kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Hà Văn Đ; 01 điện thoại di động OPPO F9 màu xanh đen kèm theo 02 sim là của bị cáo Hà Văn Đ dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu hoá giá sung quỹ Nhà nước theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.
01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe và 01 bảo hiểm y tế mang tên Hà Văn Đ là giấy tờ tùy thân. Ngày 21/02/2022, Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Lai Châu đã trả lại cho bị cáo Đ nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[7] Kiến nghị: Đề nghị Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tiếp tục xác minh làm rõ đối tượng có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nhằm tránh lọt người, lọt tội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 305, điểm s, t khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 65 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
1. Tuyên bố bị cáo Hà Văn Đ phạm tội “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Hà Văn Đ 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (12/7/2022). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo Hà Văn Đ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về vật chứng của vụ án:
- Tịch thu giao Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu xử lý theo quy định pháp luật: 7,6 kg thuốc nổ nhũ tương còn lại sau giám định và 04 kíp nổ điện vỏ bằng nhôm (Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi vào 14 giờ 30 phút ngày 16/6/2022 giữa Công an tỉnh Lai Châu và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu).
- Tịch thu tiêu hủy: 01 áo khoác màu đen size L 175/92A.
- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô biển kiểm soát 21K1- 042.69, màu nâu-vàng-đen, nhãn hiệu HONDA FUTURE, dung tích xi lanh 124, số máy JC53E-0018116, số khung RLHJC5307CY018053 kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Hà Văn Đ; 01 điện thoại di động OPPO F9 màu xanh đen kèm theo 02 sim.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 15/6/2022 giữa Công an tỉnh Lai Châu và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu).
4. Về án phí:
Bị cáo Hà Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vận chuyển trái phép vật liệu nổ số 39/2022/HS-ST
Số hiệu: | 39/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về