Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm nhẫn kim cương của cửa hàng) số 123/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 123/2023/HS-PT NGÀY 09/05/2023 VỀ TỘI

Trong ngày 09 tháng 05 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 104/2023/TLPT-HS, ngày 05/04/2023 đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng Y Vy đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2023/HS-ST ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Hoàng Yến V; giới tính: Nữ; sinh ngày 05/4/2001, tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú và trú tại: số A đường N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Sinh viên; con ông Nguyễn Văn G (chết) và bà Nguyễn Ngọc V1, sinh năm 1980; gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có chồng, con; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/02/2022 đến ngày 25/02/2022 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa) - Bị hại (không kháng cáo, không bị kháng nghị): Công ty Cổ phần T2 Địa chỉ: số G đường T, phường V, Quận C, TP .. (Vắng mặt tại phiên tòa)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị:

1/ Đinh Thị X, sinh năm 1955 Trú tại: số H đường N, Phường I, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt tại phiên tòa);

2/ Nguyễn Thị Như Q, sinh năm 2003 Hộ khẩu thường trú: số 2A đường 11A, KP5, phường An Phú, Quận 2, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chỗ ở: Tổ 7, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa);

3. Phan Huỳnh Minh T, sinh năm 2001 Hộ khẩu thường trú: số A đường L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa);

4. Dương Thanh A, sinh năm 2001 Hộ khẩu thường trú: số A đường Trần Phú, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chỗ ở: số H Cao ốc A, chung cư Ngô Gia Tự, Phường P, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hoàng Yến V là nhân viên bán hàng của Công ty Cổ phần T2, số A đường V, phường V, Quận C do ông Nguyễn Hoàng D là người đại diện theo pháp luật từ ngày 12/02/2022. Vào ngày 14/02/2022, do thiếu nợ nhiều nên V nảy sinh ý định lấy trộm nhẫn kim cương của cửa hàng. Đến khoảng 20 giờ 54 phút cùng ngày, V cùng các nhân viên kiểm tra, dọn dẹp các chiếc nhẫn trong tủ trưng bày để cất vào kho. V lấy găng tay màu đen ở quầy lễ tân đeo vào tay, mở tủ kính ở cửa ra vào, lấy 02 chiếc nhẫn nam (01 nhẫn vàng trắng 14K có mã NNA31201803210xx gắn kim cương, 01 nhẫn vàng loại 14K có mã NNA3408180321060 gắn kim cương) giữ trong lòng bàn tay trái rồi đóng tủ lại. Khi sắp xếp tại các ngăn tủ chứa nhẫn nữ thì V tiếp tục lấy 02 chiếc nhẫn loại vàng trắng 18K đính kim cương (01 chiếc mã NKC2013070122xxx và 01 chiếc mã NKC2505070122xxx). Đến khi sắp xếp nhẫn xong thì V đến bàn làm việc bỏ nhẫn vào balo, tháo găng tay để lại vị trí cũ. Lúc này, cửa hàng phát hiện bị mất nhẫn và thông báo sẽ kiểm tra balo của nhân viên nên V lấy 04 chiếc nhẫn trộm cắp được để vào túi vải màu hồng đem giấu vào chậu cây cảnh bên cạnh nhà vệ sinh. Khi mọi người tiến hành kiểm tra xong, V lấy nhẫn đem về nhà.

Đến khoảng 11 giờ 05 phút ngày 15/02/2022, V đem nhẫn lấy được đi bán nhưng do không biết bán ở đâu nên V đã liên hệ với Nguyễn Thị Như Q và Đặng Minh T1 dẫn đến bán ở cửa hàng số H đường N, Phường I, Quận E (do bà Đinh Thị X làm chủ). Tại đây, V bán 03 chiếc nhẫn (mã NNA31201803210xx; NNA3408180321060; NKC2505070122xxx) cho bà X với giá 67.000.000 đồng, bà X trả cho V 27.000.000 đồng tiền mặt và chuyển khoản 40.000.000 đồng. Còn lại 01 chiếc nhẫn nữ (mã NKC2013070122xxx) thì V mang về cất ở cốp xe gắn máy tại nhà số A đường N, phường B, Quận A. Số tiền mặt bán nhẫn có được V đưa cho Q vay 12.800.000 đồng, còn lại tiêu xài hết. Số tiền 40.000.000 đồng bán nhẫn trong tài khoản V chuyển bằng Inetrnetbanking trả nợ cho Phan Huỳnh Minh T 10.000.000 đồng, cho Dương Thanh A 25.581.000 đồng, số tiền còn lại 4.419.000 đồng dùng để trả nợ cho các đối tượng không rõ lai lịch hết. A và T dùng số tiền của V chuyển đến tiêu xài cá nhân hết.

Đến 20 giờ 30 phút ngày 15/02/2022, ông Đỗ Huỳnh Quốc N đại diện Công ty Cổ phần T2 đến nhà số A đường N, phường B, Quận A tìm V thì gặp Nguyễn Hoàng Diễm U (em ruột của V), U điện thoại cho V biết Công ty đến tìm và đòi lại nhẫn thì V nói cho U biết nhẫn cất trong cốp xe máy của V. Lúc này, U lấy nhẫn ra giao lại cho Công ty thu giữ được 01 chiếc nhẫn nữ (mã NKC2013070122xxx) và Công ty Cổ phần T2 trình báo cơ quan Công an. Bà X giao nộp lại cho Cơ quan điều tra chiếc nhẫn mã số NKC2505070122xxx, 02 chiếc nhẫn còn lại mua từ V thì bà X đã bán cho người không rõ lai lịch.

Tại Cơ quan điều tra, bị can V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, phù hợp với toàn bộ tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 133/KL-HĐĐGTS ngày 20/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận C, xác định tại thời điểm tháng 02/2022: 01 nhẫn vàng có gắn kim cương nhãn hiệu Tierra Diamond (mã sản phẩm NKC2013070122xxx), loại vàng: 18k, màu: trắng, trọng lượng vàng 7,33gram, số lượng đá đính 114 viên, trị giá 75.400.000 đồng; 01 nhẫn vàng có gắn kim cương nhãn hiệu Tierra Diamond (mã sản phẩm NKC2505070122xxx), loại vàng: 18k, màu trắng, trọng lượng vàng 4,8gram, số lượng đá đính 64 viên, trị giá 49.500.000 đồng; 01 nhẫn vàng có gắn kim cương nhãn hiệu Tierra Diamond (ký hiệu mã sản phẩm NNA31201803210xx), loại vàng: 14k, màu trắng, trọng lượng vàng 14.63gram, số lượng đá đính 86 viên, trị giá 118.000.000 đồng; 01 nhẫn vàng có gắn kim cương nhãn hiệu Tierra Diamond (ký hiệu mã sản phẩm NNA3408180321060), loại vàng: 14k, màu trắng, trọng lượng vàng 14.31gram, số lượng đá đính 78 viên, trị giá 145.900.000 đồng. Tổng giá trị tài sản qua định giá là 388.800.000 đồng.

* Vật chứng của vụ án:

- 01 nhẫn vàng gắn kim cương nhãn hiệu Tierra Diamond (mã sản phẩm NKC2013070122xxx), loại vàng: 18k, màu trắng, trọng lượng vàng 7,33gram, số lượng đá đính 114 viên; 01 nhẫn vàng có gắn kim cương nhãn hiệu Tierra Diamond (mã sản phẩm NKC2505070122xxx), loại vàng: 18k, màu trắng, trọng lượng vàng 4,8gram, số lượng đá đính 64 viên, Cơ quan điều tra đã trao trả cho bị hại.

- 01 nhẫn vàng có gắn kim cương nhãn hiệu Tierra Diamond (ký hiệu mã sản phẩm NNA31201803210xx), loại vàng: 14k, màu trắng, trọng lượng vàng 14.63gram, số lượng đá đính 86 viên và 01 nhẫn vàng có gắn kim cương nhãn hiệu Tierra Diamond (ký hiệu mã sản phẩm NNA3408180321060), loại vàng:

14k, màu trắng, trọng lượng vàng 14.31gram, số lượng đá đính 78 viên, không thu hồi được, Cơ quan điều tra đã đề nghị truy tìm vật chứng nhưng chưa có kết quả.

- 02 tem nhẫn màu trắng mã NNA3408180321060; NKC2013070122xxx kèm theo hồ sơ; 01 áo sơ mi màu trắng; 01 váy màu đen; 01 áo thun có hình gấu có chữ ACME’DELAVIE ADLV; 01 quần jean màu xanh; 01 balo sọc caro nâu; tất cả được niêm phong trong 01 balo sọc caro nâu bên ngoài được dán niêm phong có chữ kí giáp lai của Nguyễn Hoàng Yến V và dấu mộc giáp lai của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1.

- 01 điện thoại Iphone 13 pro màu xanh số IMEI: 355471921332xxx; tiền Việt Nam đồng là 12.800.000 đồng, thu giữ của Nguyễn Thị Như Q giao nộp.

- 03 USB ghi nhận hình ảnh bị can V trộm cắp và bán tài sản, lưu theo hồ sơ vụ án.

* Trách nhiệm dân sự: Công ty Cổ phần T2 yêu cầu bị can bồi thường 100.000.000 đồng, còn bà ĐinhThị X1 không yêu cầu gì khác.

Tại Cáo trạng số 90/CT-VKS-HS ngày 25/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2023/HSST ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Căn cứ dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/02/2022 đến ngày 25/02/2022.

Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/3/2023, bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, - Bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định, hiện bị cáo đang là sinh viên năm thứ ba của Trường đại học K tự nhiên, nên bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo có thể tiếp tục đi học và đi làm lo cho bà cùng các em.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha bị cáo chết sớm, mẹ đi làm ăn xa và hiện bị cáo cùng các em sống với bà, bản thân là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn khi vừa đi học đại học, vừa phải lo cho bà và các em, đây là các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó xét mức án 07 năm 06 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là nghiêm khắc nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo để sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt, tuyên phạt bị cáo mức án 07 năm tù.

Bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V không tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát và để nghị Hội đòng xét xử xem xét cho bị cáo sớm được hòa nhập cộng đồng và trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 22/02/2023, Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, đến ngày 08/3/2023, bị cáo có đơn kháng cáo yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Đơn kháng cáo của bị cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó có đủ cơ sở để kết luận:Khoảng 20 giờ 54 phút ngày 14/02/2022, tại Công ty Cổ phần T2 số 168 đường V, phường V, Quận C, Nguyễn Hoàng Yến V đã lén lút trộm cắp 01 chiếc nhẫn vàng trắng 14K có mã NNA31201803210xx, 01 chiếc nhẫn vàng loại 14K có mã NNA3408180321060; 01 chiếc nhẫn loại vàng trắng 18K có mã NKC2013070122xxx và 01 chiếc nhẫn loại vàng trắng 18K mã NKC2505070122xxx. Tổng giá trị của 04 chiếc nhẫn trên theo kết luận định giá là 388.800.000 đồng.

Do đó, Tòa án nhân dân Quận 3 đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan sai.

[3] Xét đơn kháng cáo của bị cáo:

Trong đơn kháng cáo và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có thể tiếp tục đi học và đi làm lo cho bà cùng các em.

Về hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo, khi lượng hình thì Tòa án nhân dân Quận 3 đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi một phần, từ đó áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo không cung cấp thêm tình tiết, chứng cứ nào mới để làm cơ sở xem xét. Hội đồng xét xử phúc thẩm sau khi cân nhắc đến nhân thân người phạm tội, tính chất và hậu quả của hành vi phạm tội, nhận thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là phù hợp, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Tuy nhiên xét hoàn cảnh gia đình bị cáo có cha chết sớm, mẹ đi làm ăn xa và hiện bị cáo cùng các em sống với bà, bản thân là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn khi vừa đi học đại học, vừa phải lo cho bà và các em, đây là các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, mức án 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên là nghiêm khắc, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bị cáo để sửa án sơ thẩm theo hướng giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Đồng thời, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo để cho bị cáo được hưởng án treo.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và sửa án sơ thẩm.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, 1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V và sửa bản án sơ thẩm số 12/2023/HS-ST ngày 22/02/2023 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt Nguyễn Hoàng Yến V: 07 (bảy) năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 17/02/2022 đến ngày 25/02/2022.

3. Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và căn cứ Điều 22 và 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án, Bị cáo Nguyễn Hoàng Yến V không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm nhẫn kim cương của cửa hàng) số 123/2023/HS-PT

Số hiệu:123/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về