Bản án về tội trộm cắp tài sản số 97/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 97/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 89/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T(tên gọi khác: TA), sinh năm 1988, tại tỉnh LA. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã TĐ, huyện TH, tỉnh LA; nơi ở: Không ổn định (bị cáo tự khai); nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P (chết) và bà Lê Thị S; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 18/6/2007, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân An, tỉnh Long An xử phạt 01 năm 03 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt chính ngày 23/5/2008 và quyết định khác ngày 29/10/2007, án tích đã được xóa); ngày 15/9/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phúc thẩm phạt 01 năm 06 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt chính ngày 18/9/2011 và quyết định khác ngày 06/6/2012, án tích đã được xóa); ngày 26/9/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xử phạt 05 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt chính ngày 09/5/2017 và một phần quyết định khác vào các ngày 05/3/2013 và 26/8/2013, án tích đã được xóa); bị bắt tạm giữ ngày 30-01-2020, tạm giam ngày 05-02-2020 “có mặt”.

Bị hại: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1982. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp V, xã AC, huyện CT, tỉnh TN; nơi ở: Nhà số 135/5, đường KVC, phường HBC, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khi Nguyễn Văn T trên đường đi tìm tài sản để lấy bán kiếm tiền tiêu xài thì lúc khoảng 12 giờ 10 phút ngày 30/01/2020, T nhìn thấy chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Future F1, biển số 70D1-X của anh Nguyễn Văn H để trên sân nhà số 1686/4/1, đường TL 10, Khu phố 1, phường TT, quận BT mà không có ai trông coi nên đến mở cửa cổng đi vào lấy chiếc xe của anh H dẫn bộ ra đường TL 10 rồi dừng lại đấu nối dây điện để nổ máy xe chạy tẩu thoát thì trong lúc này bị Tổ tuần tra Công an phường Tân Tạo đến phát hiện bắt giữ cùng với vật chứng đưa về phường xử lý. Sau đó, sự việc được chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền và tại đây Tuấn đã thừa nhận toàn bộ hành vi như vừa đã nêu.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai do cần có tiền tiêu xài nên trong lúc đi tìm tài sản để lấy thì, bị cáo khi nhìn thấy chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Future F1, biển số 70D1-X của anh Nguyễn Văn H để trên sân nhà mà không có ai trông coi nên đến mở cửa cổng đi vào lấy chiếc xe của anh H dẫn bộ ra đường đấu nối dây điện để nổ máy chạy tẩu thoát thì bị phát hiện bắt giữ cùng với vật chứng nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời thống nhất về tài sản đã chiếm đoạt của anh H có giá trị là 30.000.000 đồng và không có ý kiến gì về trách nhiệm dân sự cùng với việc giải quyết vật chứng.

Bản cáo trạng số 106/CT-VKS ngày 31 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội trộm cắp tài sản”, theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã nêu: Bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của anh Nguyễn Văn H, tội phạm đã hoàn thành, tài sản có giá trị là 30.000.000 đồng và đã 03 lần bị kết án, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là “Tái phạm nguy hiểm” nên cần phải xử lý bị cáo bằng một mức án thật nghiêm thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm; còn về vật chứng, đã được giải quyết xong nên không có ý kiến.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào khoảng 12 giờ 10 phút ngày 30/01/2020, bị cáo Nguyễn Văn Tđã có hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản là chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Future F1, biển số 70D1-X của anh Nguyễn Văn H để tại sân nhà số 1686/4/1, đường TL 10, Khu phố 1, phường TT, quận BT. Theo Bản kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì chiếc xe này có giá trị là 30.000.000 đồng. Do đó, bị cáo đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại, vật chứng thu giữ được, định giá tài sản…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và một phần lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng Cáo trạng và Kiểm sát viên cho rằng, do bị cáo đã 03 lần bị kết án đều chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” nên truy tố và đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử bị cáo là không đúng bởi do, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì cả 03 lần bị cáo bị kết án đều đã được xóa án tích nên lần phạm tội này không thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” và cũng từ đó làm cho mức án đề nghị không phù hợp theo nên không chấp nhận.

[3] Xét bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người khác, thực hiện hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo tuy ít nghiêm trọng nhưng đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân. Bên cạnh đó, bị cáo còn có nhân thân xấu là đã từng 03 lần bị kết án cùng loại tội phạm nên nay cần phải áp dụng một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tuy tại phiên tòa hôm nay, bị hại anh Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt nhưng theo các tài liệu có trong hồ sơ thì, anh H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm nên không xét.

[5] Về vật chứng: Chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Future F1, biển số 70D1-X của anh Nguyễn Văn H, Cơ quan điều tra đã thu hồi và giao trả trực tiếp lại cho anh H nên không xét.

[6] Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30-01-2020.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại anh Nguyễn Văn H vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 97/2020/HS-ST

Số hiệu:97/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về