Bản án về tội trộm cắp tài sản số 96/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 96/2019/HS-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2019/HSST ngày 23 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ tên: Lê Văn C; Sinh ngày: 10/02/1991 tại: Q; Địa chỉ thường trú: Đội 3, thôn Đ, xã D, huyện L, tỉnh Q; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn H và bà Võ Thị H; Có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017;

Tiền án: Ngày 10/12/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 28/8/2017 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2019 (có mặt).

- Bị hại:

Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1992

Địa chỉ: 134/4A đường L, khu phố 7, phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/5/2019, Lê Văn C và đối tượng tên Nhất (không rõ lai lịch) nhậu tại một quán trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Trong lúc ngồi nhậu, Nhất rủ C đi trộm cắp xe mô tô của người khác bán lấy tiền tiêu xài và C đồng ý. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Nhất đưa cho C một cây đoản phá khóa xe bằng kim loại, cả hai thống nhất khi phát hiện xe có thể trộm được thì Nhất sẽ trông xe cảnh giới, C là người trực tiếp cầm đoản vào phá khóa xe để chiếm đoạt. Sau đó, Nhất điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave @ màu đỏ (không rõ biển số) chở C đi trên các tuyến đường thuộc Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm xe mô tô chiếm đoạt. Khi đến trước nhà số 134 tổ 7, khu phố 7, phường T, Quận 9, cả hai phát hiện xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X1-X của ông Nguyễn Văn Q đang dựng trước cửa nhà không có người trông giữ. Nhất ngồi trên xe nổ máy chờ, C đến dùng đoản kim loại mở khóa xe của ông Q nhưng không được nên C dẫn bộ ra. Khi C dẫn xe đến trước nhà số 134/1A thì bị ông Q phát hiện truy hô, bắt giữ C cùng tang vật. Thấy vậy, Nhất điều khiển xe chạy thoát.

Tại kết luận định giá tài sản số 103-2019/KL-ĐGTS ngày 29/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận: Chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X1-X có giá trị còn lại là 28.000.000 đồng.

Bị hại là ông Nguyễn Văn Q xác nhận đã bị bị cáo Lê Văn C chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X1-X, hiện ông Q đã nhận lại xe nhưng có hư hỏng thiết bị xe. Nay ông Q yêu cầu bị cáo C phải bồi thường thiệt hại số tiền 1.000.000 đồng do bị cáo làm hư hỏng thiết bị xe.

Tại bản cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 23/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn C đã trình bày lại toàn bộ nội dung vụ án và thừa nhận đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X1-X của ông Nguyễn Văn Quý vào ngày 15/5/2019 tại nhà số 134 tổ 7, khu phố 7, phường T, Quận 9 như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, bị cáo đã nhìn nhận trách nhiệm của mình và tỏ thái độ ăn năn hối hận, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến đánh giá nội dung vụ án, xác định hành vi phạm tội và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) như nội dung bản cáo trạng. Đồng thời, Đại diện Viện kiểm sát cũng đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định pháp luật xử phạt bị cáo Lê Văn C mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; tịch thu, tiêu huỷ 01 cây đoản bằng kim loại; tách yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Nguyễn Văn Q đối với bị cáo để giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ, tang vật khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định, bị cáo Lê Văn C đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X1-X, có trị giá 28.000.000đ (hai mươi tám triệu đồng) của ông Nguyễn Văn Q xảy ra vào ngày 15/5/2019 tại nhà số 134 tổ 7, khu phố 7, phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo chiếm đoạt xe và dẫn xe đi một đoạn thì bị phát hiện và bị bắt giữ quả tang nên hành vi chiếm đoạt của bị cáo đã hoàn thành.

Bản thân bị cáo đã bị kết án nhiều lần, đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này được xác định là trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Do đó, hành vi của bị cáo Lê Văn C thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét ý kiến của đại diện viện kiểm sát và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự công cộng nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên cần xem xét áp dụng các quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là ông Nguyễn Văn Q đã nhận lại chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X1-X. Tuy nhiên, ông Q yêu cầu bị cáo Lê Văn C phải bồi thường thiệt hại số tiền 1.000.000 đồng do bị cáo làm hư hỏng thiết bị xe.

Toà án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham dự phiên toà nhưng ông Nguyễn Văn Q vắng mặt không có lý do. Xét thấy sự vắng mặt của bị hại chỉ trở ngại cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử quyết định tách yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Nguyễn Văn Q để giải quyết sau bằng một vụ án khác khi nào ông Q có đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Về tang vật chứng của vụ án: 01 cây đoản bằng kim loại màu trắng, dài 07cm đang tạm giữ là công cụ sử dụng vào việc phạm tội và không có giá trị nên tịch thu, tiêu huỷ.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1.1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1.2. Xử phạt: Lê Văn C 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/5/2019.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu, tiêu huỷ: 01 cây đoản bằng kim loại màu trắng, dài 07cm.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 71/19 ngày 05/8/2019 của Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh) 3. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tách yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Nguyễn Văn Q đối với bị cáo về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X1-X để giải quyết sau bằng một vụ án khác khi nào ông Q có đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.

4. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lê Văn C phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại được thực hiện quyền kháng cáo bản án. Trường hợp vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 96/2019/HS-ST

Số hiệu:96/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về