Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 94/2023/HS-ST NGÀY 27/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2023/TLST- HS, ngày 29 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Quang T, (tên gọi khác: Th); Giới tính: Nam; Sinh năm 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: 1467/14 Phạm Thế Hiển, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Làn thuê; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Kính H và bà Nguyễn Thị E; Bị cáo có vợ tên Trần Thanh H, sinh năm 1992, có 02 con sinh năm 2009 và 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 17/7/2020, Tòa án nhân dân Quận 8 ra Quyết định số 392/2020/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 22 tháng. Chấp hành xong Quyết định ngày 06/3/2022.

Nhân thân:

- Ngày 14/3/2013, Tòa án nhân dân Quận 8 xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 57/2013/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/8/2013. Đóng án phí ngày 13/5/2013.

- Ngày 29/01/2015, Tòa án nhân dân Quận 7 xử phạt xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 15/2015/HS - ST. Bị cáo đã đóng án phí hình sự sơ thẩm năm 2015.

- Ngày 27/5/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với hình phạt của Bản án số 15/2015/HS - ST của Tòa án nhân dân Quận 7 thành hình phạt chung là 03 năm 06 tháng tù theo Bản án số 133/2015/HS - ST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/10/2017 và đã đóng án phí hình sự sơ thẩm (Bị cáo được miễn giảm hình phạt tù trước thời hạn 6 tháng, văn bản xác nhận miễn, giảm hình phạt tù thể hiện phần nghĩa vụ bị cáo còn phải thi hành án là không có).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2023. (có mặt) Bị hại: Ông Võ Thanh B, sinh năm 2004 (vắng mặt) Nơi cư trú: Phòng số 5, nhà trọ số 211C/9 Ấp 3, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Trần Thanh H, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Ấp L, xã M, huyện C, tỉnh Long An (vắng mặt) 2/ Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960 (vắng mặt) 3/ Bà Huỳnh Thị Thu Tr, sinh năm 1960 (vắng mặt) Nơi cư trú: Số D11/318 Ấp 4, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

4/ Ông Nguyễn Văn D, Nơi cư trú: Ấp L, xã M, huyện C, tỉnh Long An (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ ngày 03/11/2022, Đặng Quang T điều khiển xe mô tô Wave màu đỏ biển số 62M1-808.33 đến nhà trọ địa chỉ 211C/9 Ấp 3, xã A, huyện B để tìm người quen tên D1 (không rõ lai lịch) để đòi nợ. Khi đến nơi, T dựng xe mô tô trước dãy phòng trọ rồi đi bộ xuống tìm D1. Thấy cửa phòng trọ số 5 chỉ khép hờ nên T đẩy cửa vào thì nhìn thấy ông Võ Thanh B đang nằm ngủ, phía trên đầu nằm của ông B có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 8 đang sạc pin nên T nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại này để đem về sử dụng. Lúc này, T lén lút đi vào phòng, lấy chiếc điện thoại đi động cầm trên tay trái rồi đi ra chỗ dựng xe mô tô của mình định tẩu thoát thì bị ông B thức dậy phát hiện, dùng tay ôm người của T lại. Lúc này, T dọa ông B là nếu ông B không buông T ra thì T sẽ đâm nên ông B sợ, buông T ra và tri hô người dân. T để lại xe mô tô và bỏ chạy bộ ra đường Nguyễn Văn Linh núp sau bụi cây thì bị người dân phát hiện giữ T lại và giao cho Công an xã An Phú Tây lập hồ sơ ban đầu. Sau đó vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra, xử lý.

Kết luận định giá tài sản số 3795/KL-HĐĐGTS ngày 23/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh xác định: 01 điện thoại di động Redmi Note 8 trị giá 2.750.000 đồng.

Cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 27/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Đặng Quang T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 6 tháng tù; không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” đối với bị cáo do bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù và đóng án phí của các bản án tại trại giam, việc này phù hợp với giấy chứng nhận miễn giảm phạt tù của bị cáo và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án (giấy chứng nhận chấp hành hình phạt tù của bị cáo ghi rõ phần nghĩa vụ còn phải thi hành án là không có).

Về dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét. Về vật chứng đã được trả lại cho bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Vào ngày 03/11/2022, bị cáo Đặng Quang T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi Note 8 trị giá 2.750.000 đồng của ông Võ Thanh B tại phòng số 5, nhà trọ 211C/9 Ấp 3, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị phát hiện.

Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Đặng Quang T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có một tiền sự bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và có nhân thân xấu nhiều lần bị xử phạt tù về tội trộm cắp tài sản nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Đối với việc Đặng Quang T khi bị ông B phát hiện hành vi phạm tội đã có lời nói dọa ông B là sẽ đâm nếu ông B không buông T ra, do chỉ thể hiện bằng lời nói, trong người của T không có hung khí và T không có xô đẩy, hành hung và chống trả bị hại để giành tài sản nên không có căn cứ để xử lý T về tình tiết “hành hung để tẩu thoát”.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản điện thoại hiệu Xiaomi Redmi Note 8 và không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

[6] Xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô Wave màu đỏ biển số 62M1-808.33, qua xác minh do Nguyễn Văn C đứng tên chủ sở hữu. Ông C đã ủy quyền chiếc xe này cho ông Nguyễn Văn D. Sau đó, ông D đã ủy quyền lại cho bà Trần Thanh H. Bà H khai xe trên là bà mua xe cũ tại cửa hàng xe gắn máy T và có hợp đồng ủy quyền mua bán. Vào ngày 03/11/2022, bà H cho chồng là Đặng Quang T mượn xe để đi công việc, bà H không biết việc T sử dụng xe đi trộm cắp. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho bà H là người được giao quản lý tài sản nên không xem xét.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Quang T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Đặng Quang T: 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/01/2023.

3. Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Bị cáo Đặng Quang T chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo Đặng Quang T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2023/HS-ST

Số hiệu:94/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về