Bản án về tội trộm cắp tài sản số 92/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 92/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 70/2022/HS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2022/QĐXXST-HS ngày 05/7/2022 đối với bị cáo:

Trần Lê Giám Đ, sinh năm 1994, tại Phú Yên; Nơi cư trú: Thôn A 2, xã A, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn) 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Lê Thị D; Có vợ là Nguyễn Thị L và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 25/01/2022, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

Bị hại:

- Chị R. M, sinh năm 1982, quốc tịch Ấn Độ là chuyên viên tư vấn năng lượng của Công ty GE Việt Nam – Văn phòng đại diện trụ sở tại xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Tạm trú: Khu phố 5, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

- Anh Miao Yun C, sinh năm 1987, quốc tịch Trung Quốc là chuyên viên kỹ thuật của Công ty điện gió C, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Tạm trú: Khu phố 5, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

- Chị Nguyễn Lê Phương T, sinh năm 1994. Nơi cư trú: Khu phố 7, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Anh Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Số 305 nhà A, phường P, quận Đ, thành phố Hà Nội (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1994. Nơi cư trú: Thôn A 2, xã A, huyện N, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 25/01/2022 do cần tiền tiêu xài cá nhân, Đ nảy sinh ý định tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp. Đ mang theo 01 thanh sắt dài khoảng hơn 20cm bỏ vào ba lô màu xám, rồi điều khiển xe mô tô 85D1-545.62 nhãn hiệu Honda – Vison, đi đến chung cư P thuộc khu phố 5, phường M, thành phố P để trộm cắp tài sản. Khi đến phòng C8 tầng 10 do anh Miao. Yun C thuê để ở, thấy cửa ngoài khóa nên Đ dùng thanh sắt cạy bung ổ khóa đi vào bên trong lấy trộm 01 loa Bluetool, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu trắng và 01 máy ảnh hiệu Canon màu đen của anh Miao Yun C, rồi bỏ vào ba lô đưa về nhà cất giấu. Sau đó, Đ lên mạng xã hội liên lạc với anh Sơn Minh Q là chủ tiệm điện thoại (địa chỉ 161 N, phường 10, Quận X, TP Hồ Chí Minh) và nói đang có 01 máy ảnh hiệu Canon muốn bán thì anh Q yêu cầu Đ gửi máy vào kiểm tra rồi mới mua, Đ đồng ý và đến Viettel Post ở phường Đạo Long gửi bưu kiện máy ảnh vào cho Q, trên đường Viettel Post đang vận chuyển thì cơ quan điều tra đã thu hồi 01 máy ảnh hiệu Canon nói trên.

Hành vi phá khóa cửa đột nhập vào căn hộ C8 tầng 10 chung cư P để trộm cắp tài sản của Đ được Camera giám sát an ninh gắn ở hành lang tầng 10 chung cư P ghi lại được vào lúc 10 giờ 05 phút, ngày 25/01/2022. Cơ quan điều tra ra Lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đ và tạm giữ đồ vật tài liệu liên quan. Tại cơ quan điều tra, Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và bị cáo còn tự nguyện khai báo về các lần thực hiện hành vi phạm tội khác, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ, ngày 11/6/2021 cũng với phương thức như trên Đ đi đến chung cư P rồi đến phòng E4 do chị R. M thuê ở, Đ dùng thanh sắt cạy bung ổ khóa và đi vào bên trong căn hộ. Đ thấy trên mặt tủ gỗ để cạnh giường ngủ có 01 điện thoại hiệu Asus – Zenfone, màu xanh và trên đầu giường có một máy tính bảng nhãn hiệu Nexus, màu đen của chị R. M, Đ lấy số tài sản trên bỏ vào trong ba lô mang theo rồi đưa về nhà cất giấu.

Vụ thứ hai: Khoảng 10 giờ, ngày 04/01/2022, cũng bằng phương thức như trên Đ đến chung cư P để trộm cắp tài sản. Đ đi đến phòng F2 thuộc tầng 4 của chung cư do chị Nguyễn Lê Phương T thuê ở, Đ sử dụng thanh sắt cạy khóa rồi vào căn hộ. Đ thấy có 01 Ipad – Apple, màu vàng để ở trên mặt tủ gỗ, 01 điện thoại Iphone 7 plus, màu đen, 02 con heo đất để trên bàn máy tính; 01 mặt đá trang sức, hình tròn có khuy kim loại màu vàng, 01 đồng hồ nữ hiệu Casio, hình tròn; 01 đồng hồ nữ hiệu DW, hình tròn của chị T. Đ lấy hết số tài sản bỏ vào trong ba lô, riêng 02 con heo đất Đ đập vỡ lấy số tiền bên trong, rồi đi về nhà. Sau khi về nhà Đ kiểm tra số tiền trong 02 con heo đất có 3.775.000 đồng, trong đó có các mệnh giá gồm:

10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng, 100.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 5.000 đồng, số tiền trên Đ đã tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 09 giờ, ngày 11/01/2022, cũng bằng phương thức như trên Đ đến chung cư P để trộm cắp tài sản. Đ đi đến trước phòng C17 do anh Nguyễn Hoàng T thuê để ở, Đ sử dụng thanh sắt cạy ổ khóa đột nhập vào bên trong. Đ thấy trên mặt tủ để cạnh giường có 01 đồng hồ nam, mặt hình tròn màu vàng, dây da màu đen; 01 bật lửa hình vuông, màu vàng của anh Nguyễn Hoàng T. Đ lấy số tài sản trên bỏ vào trong ba lô rồi đi về nhà cất giấu.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số: 09/KLTS, ngày 27/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP Phan Rang-Tháp Chàm, kết luận:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu trắng có giá trị là 1.500.000 đồng;

+ 01 loa bluetooth hiệu MOZARD, màu đen, đã qua sử dụng, có giá 396.000 đồng;

+ 01 máy chụp ảnh hiệu Canon EOS 850D đã qua sử dụng, có giá trị là 23.400.000 đồng.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số: 27/KLTS, ngày 13/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP Phan Rang-Tháp Chàm, kết luận:

+ 01 điện thoại hiệu Asus – Zenfone Max Pro (M1), màu xanh có giá trị 1.200.000 đồng;

+ 01 máy tính bảng nhãn hiệu Nexus 9, màu đen, có giá trị 1.100.000 đồng;

+ 01 điện thoại Iphone7 plus, màu đen, có giá trị 3.000.000 đồng;

+ 01 mặt đá trang sức màu vàng xanh, hình tròn loại đá Phỉ Thúy, có giá trị 1.000.000 đồng; 01 khuy kim loại màu vàng, loại vàng 14k, trọng lượng 5 phân, có giá 1.539.500 đồng. Tổng giá trị của 01 mặt đá trang sức màu vàng xanh, hình tròn có khuy kim loại màu vàng có giá trị 2.539.500 đồng;

+ 01 đồng hồ nữ hiệu Casio Sheen, mặt đồng hồ hình tròn, kim loại màu trắng, dây bằng kim loại, màu trắng, đã qua sử dụng, có giá trị 3.602.500 đồng;

+ 01 đồng hồ nữ hiệu DW – Classis B32R1, mặt đồng hồ hình tròn, kim loại màu vàng, dây da màu đỏ, đã qua sử dụng, có giá trị 2.800.000 đồng;

+ 01 máy tính bảng hiệu Apple Ipad Gen 7, màu vàng, có giá trị 6.400.000 đồng;

+ 01 đồng hồ nam, hiệu Poljot – Pycckoe bpema, mặt đồng hồ hình tròn, kim loại màu vàng đồng, dây da màu đen (đã qua sử dụng) có giá trị 6.100.000 đồng;

+ 01 bật lửa màu vàng, hiệu Dupont, đã qua sử dụng, có giá trị 1.500.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản mà Đ chiếm đoạt là: 57.313.000đ, trong đó 53.538.000 đồng (giá trị định giá tài sản) và 3.775.000 đồng (tiền mặt).

Vật chứng thu giữ: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã thu giữ của Trần Lê Giám Đ gồm:

- 01 xe mô tô biển số 85D1 - 545.62, nhãn hiệu Honda - Vison, màu xanh nâu bạc;

- 01 loa mini Bluetooth, hiệu Mozard, hình tròn, màu đen;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu trắng;

- 01 giấy chuyển bưu phẩm số VTP 1665303377950;

- 01 điện thoại hiệu Asus - Zenfone Max Pro (M1), màu xanh;

- 01 máy tính bảng nhãn hiệu Nexus 9, màu đen;

- 01 điện thoại Iphone7 plus, màu đen;

- 01 mặt đá trang sức màu vàng xanh, hình tròn có khuy kim loại màu vàng;

- 01 đồng hồ nữ hiệu Casio Sheen, mặt đồng hồ hình tròn, kim loại màu trắng, dây bằng kim loại, màu trắng.

- 01 đồng hồ nữ hiệu DW - Classis B32R1, mặt đồng hồ hình tròn, kim loại màu vàng, dây da màu đỏ;

- 01 đồng hồ nam, hiệu Poljot - Pycckoe bpema, mặt đồng hồ hình tròn kim loại màu vàng đồng, dây da màu đen;

- 01 bật lửa màu vàng, hiệu Dupont, hình chữ nhật có KT (5,5 x 3,5 x 1,5)cm;

- 01 túi (ba lô) bằng vải, màu xám.

Đối với anh Sơn Minh Q là người được Đ gửi 01 máy ảnh hiệu Canon kiểm tra xem máy để mua. Quá trình điều tra xác định: Q không biết máy ảnh trên là do Đ trộm cắp mà có, Q yêu cầu Đ gửi máy ảnh vào để kiểm tra chưa đồng ý mua và cũng chưa nhận được máy ảnh. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý đối với Q là có cơ sở.

Đối với chị Nguyễn Thị L (vợ của Đ) là chủ xe mô tô 85D1 – 545.62, nhãn hiệu Honda – Vison, màu xanh nâu bạc; 01 túi (ba lô) bằng vải màu xám, quá trình điều tra xác định: Mục đích L giao xe và túi (ba lô) cho Đ sử dụng để đi làm và không biết Đ sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý đối với chị L là có cơ sở.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Lê Phương T yêu cầu bị cáo Đ bồi thường tổng số tiền 10.175.000 đồng, gồm số tiền 3.775.000 đồng có trong 02 con heo đất và 6.400.000 đồng là giá trị của 01 máy tính bảng hiệu Apple Ipad Gen 7, màu vàng. Bị cáo Đ đã tác động chị Nguyễn Thị L bồi thường cho chị T toàn bộ số tiền trên. Đối với các tài sản khác chị T đã nhận và không có yêu cầu bồi thường gì khác. Các bị hại Nguyễn Hoàng T, R.M, Miao Yun C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt bị hại Nguyễn Lê Phương T, Nguyễn Hoàng T trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về dân sự chị T và anh Nguyễn Hoàng T đã nhận lại toàn bộ tài sản bị trộm cắp nên không yêu cầu bị cáo bồi thương gì thêm.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa bị hại R.M có chị Nguyễn Việt Trinh là phiên dịch viên trình bày: Chị R.M đồng ý với nội dung kết luận điều tra và không có ý kiến gì khác, do công việc phải đi lại giữa Việt Nam và Ấn độ nên không có thời gian để tham dự nên xin vắng mặt tại phiên tòa, việc làm đơn là tự nguyện, không bị ai ép buộc.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt bị hại Miao Yun C có chị Nguyễn Thị Tuyết K là phiên dịch viên trình bày: Anh Miao. Yun Chao vẫn giữ nguyên các lời khai trước đây của mình tại Cơ quan Công an, về dân sự anh Miao Yun C đã nhận lại toàn bộ tài sản của mình và không có yêu cầu gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị là vợ của bị cáo Đ quá trình giải quyết vụ án bị cáo Đ đã tác động chị bồi thường cho chị T số tiền 10.175.000 đồng. Việc bồi thường trên là do chị tự nguyện và chị không yêu cầu bị cáo Đ phải trả số tiền trên cho chị.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận diễn biến sự việc xảy ra như nội dung cáo trạng đã truy tố và đồng ý với bản kết luận giám định nêu trên.

Bản Cáo trạng số 71/CT-VKSPRTC ngày 19 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Trần Lê Giám Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Lê Giám Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 173; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Trần Lê Giám Đ từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, xét việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử bị cáo nên căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Lê Giám Đ tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để xác định:

Trong thời gian từ ngày 11/6/2021 đến ngày 25/01/2022, tại Chung cư P thuộc khu phố 5, phường M, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận bị cáo Trần Lê Giám Đ, đã thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản của các bị hại là chị R. M, chị Nguyễn Lê Phương T, anh Nguyễn Hoàng T và anh Miao Yun C, tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 57.313.000 đồng, trong đó 53.538.000 đồng (giá trị định giá tài sản) và 3.775.000 đồng (tiền mặt). Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Trần Lê Giám Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo Trần Lê Giám Đ đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương nên phải xử lý nghiêm minh nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo 04 lần thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, mỗi lần đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm độc lập, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường cho bị hại; tự thú những lần phạm tội trước, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử cân nhắc khi lượng hình mức án phù hợp cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 loa mini Bluetooth, hiệu Mozard, hình tròn, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu trắng; 01 máy chụp ảnh hiệu Canon EOS 850D. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã trả lại cho anh Miao Yun C chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ.

- Đối với 01 điện thoại hiệu Asus – Zenfone Max Pro (M1), màu xanh; 01 máy tính bảng nhãn hiệu Nexus 9, màu đen. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã trả lại cho chị R. M chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ.

- Đối với 01 điện thoại Iphone7 plus, màu đen; 01 mặt đá trang sức màu vàng xanh, hình tròn có khuy kim loại màu vàng; 01 đồng hồ nữ hiệu Casio Sheen, mặt đồng hồ hình tròn, kim loại màu trắng, dây bằng kim loại, màu trắng; 01 đồng hồ nữ hiệu DW – Classis B32R1, mặt đồng hồ hình tròn, kim loại màu vàng, dây da màu đỏ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã trả lại cho chị Nguyễn Lê Phương T chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ.

- Đối với 01 đồng hồ nam, hiệu Poljot – Pycckoe bpema, mặt đồng hồ hình tròn, kim loại màu vàng đồng, dây da màu đen; 01 bật lửa màu vàng, hiệu Dupont. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã trả lại cho anh Nguyễn Hoàng T chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 85D1 – 545.62, nhãn hiệu Honda – Vison; 01 ba lô bằng vải màu xám là phương tiện, công cụ mà Đ sử dụng vào mục đích thực hiện tội phạm. Quá trình điều tra xác định đồ vật, phương tiện trên thuộc quyền sở hữu của chị Nguyễn Thị L. Việc Đ sử dụng phương tiện, đồ vật trên vào mục đích phạm tội chị L không biết. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã trả lại cho chị L chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ.

- Đối với 01 máy tính bảng hiệu Apple Ipad Gen 7, màu vàng Đ đã bán cho 01 nam thanh niên không rõ lai lịch với giá 500.000 đồng, hiện không thu hồi được;

- Đối với 02 con heo đất chị Nguyễn Lê Phương T sử dụng đã lâu, không còn giá trị, chị T không yêu cầu bồi thường nên không xem xét xử lý.

- Đối với 01 cây sắt, dài khoảng 30cm, Đ sử dụng để cạy ổ khóa đột nhập vào trộm cắp tài sản, trên đường đi về bị cáo Đ đã làm rơi mất. Quá trình điều tra, không xác định được vị trí thanh sắt rơi nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để tiến hành truy tìm thanh sắt trên, nên chưa thu hồi được.

- Đối với 01 đĩa DVD có chứa đoạn video ghi lại hành vi phá khóa cửa đột nhập vào căn hộ C8 tầng 10 chung cư P của Đ để trộm cắp tài sản xảy ra ngày 25/01/2022 và 01 giấy chuyển bưu phẩm máy chụp ảnh hiệu Canon EOS 850D của trung tâm Viettel Post, chuyển lưu giữ cùng hồ sơ vụ án.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Các bị hại đã nhận lại tài sản, tiền bồi thường và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị L đã bồi thường cho chị Nguyễn Lê Phương T số tiền 10.175.000 đồng thay cho bị cáo Đ, chị L không yêu cầu bị cáo phải trả lại cho chị số tiền trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Sơn Minh Q được Đ gửi 01 máy ảnh hiệu Canon để xem xét kiểm tra máy nhằm mục đích mua lại. Anh Q không biết máy ảnh là do Đ trộm cắp mà có và cũng chưa nhận được máy ảnh trên. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý đối với anh Q là có cơ sở.

Đối với chị Nguyễn Thị L khi giao xe mô tô 85D1 – 545.62 và 01 túi (ba lô) bằng vải màu xám cho Đ sử dụng, nhưng chị L không biết Đ sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội. Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý đối với chị L là có cơ sở.

 [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 2 Điều 173; Điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Lê Giám Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Lê Giám Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 25/01/2022.

2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Lê Giám Đ phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, có mặt bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/7/2022); vắng mặt người bị hại quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 92/2022/HS-ST

Số hiệu:92/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về